
Cán bộ xã Tuấn Đạo thăm mô hình nuôi ong của ông Ngô Tuấn Xuân – hộ nuôi ong tiêu biểu ở thôn Đồng Xuân. Ảnh: Phạm Minh.
Bài bản từ con giống đến đầu ra
Đồng bãi quanh thôn Đồng Xuân thơm mùi hoa dại. Giữa những dãy thùng gỗ xếp ngay ngắn, anh em trong tổ cộng đồng lúi húi kiểm tra cầu ong, ghé tai lắng tiếng vù vù của một đàn khỏe mạnh. Nuôi ong ở Tuấn Đạo từng bắt đầu như một thử nghiệm nhỏ; giờ đây, nó trở thành mũi nhọn sinh kế được Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững ưu tiên.
Cách làm bài bản. Giống – thiết bị – tập huấn đến trước, rồi mới tính chuyện nhân rộng. Các hộ nghèo, cận nghèo được cấp thùng nuôi, đồ bảo hộ, máy quay mật; được hướng dẫn quy trình chăm sóc đàn, phòng trừ dịch bệnh, bảo quản và tiêu thụ. Nguồn vốn ưu đãi qua Ngân hàng Chính sách Xã hội giúp mua thêm cầu, thùng, đầu tư bãi nuôi, dựng mái che. Liên kết đầu ra được địa phương chủ động xây với hợp tác xã, doanh nghiệp, để người nuôi có kênh tiêu thụ ổn định, không “được mùa rớt giá”.

Mô hình nuôi ông được nhân rộng cho các hộ nghèo, cận nghèo tại xã Tuấn Đạo. Các hộ được cấp thùng nuôi, đồ bảo hộ, máy quay mật; được hướng dẫn quy trình chăm sóc đàn, phòng trừ dịch bệnh, bảo quản và tiêu thụ. Ảnh: Phạm Minh.
Trong tổ cộng đồng, ông Lưu Văn Quý ở thôn Nam Bồng nhận hỗ trợ 44 triệu đồng, hoàn trả quay vòng 2,2 triệu đồng, bắt đầu từ 2 con bò thương phẩm – một nhánh sinh kế khác chạy song song với đàn ong. Với các hộ có lợi thế bãi hoa, ong là hướng chính; với hộ có sẵn chuồng trại, đồng cỏ, gia súc lại hợp hơn. Đa dạng hóa sinh kế giúp mỗi nhà có “hai chân” để đứng vững trước rủi ro.
Lời người trong cuộc và kết quả đổi thay
Trao đổi với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường về những ngày đầu tham gia mô hình, ông Ngô Tuấn Xuân – hộ nuôi ong tiêu biểu ở thôn Đồng Xuân kể: “Lúc mới nhận thùng ong, tôi chưa biết kỹ thuật tách đàn hay phòng bệnh. Được cán bộ kỹ thuật ‘cầm tay chỉ việc’, tôi chịu khó ghi chép, làm đúng quy trình. Vụ hoa vừa rồi quay được mấy mẻ mật, bán được giá khá, tôi trích lại một phần để quay vòng vốn, phần còn lại sửa chuồng và làm mái che cho thùng ong”.

Nụ cười rạng rỡ của ông Ngô Tuấn Xuân – hộ nuôi ong tiêu biểu ở thôn Đồng Xuân khi cán bộ xã Tuấn Đạo về thăm. Ảnh: Phạm Minh.
Cũng trong buổi trao đổi, bà Nguyễn Thanh Thủy, Phó Trưởng phòng Kinh tế xã Tuấn Đạo, tỉnh Bắc Ninh cho biết: “Trong quá trình triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giảm nghèo bền vững, xã đã lựa chọn và triển khai những mô hình phù hợp thế mạnh địa phương, nổi bật là nuôi ong lấy mật. Hộ nghèo, cận nghèo tham gia được cấp giống, thiết bị, tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ vốn vay ưu đãi và kết nối tiêu thụ sản phẩm. Nhờ đó, số hộ nghèo giảm từ 231 (năm 2021) xuống 132, hộ cận nghèo giảm từ 451 xuống còn 38 vào năm 2025”.
Ở thôn Mùng, 8 hộ nhận 16 con bò thương phẩm (2 con/hộ). Ở thôn Đông Bảo Tuấn, 16 hộ nhận 32 con bò. Còn 6 hộ nghèo được hỗ trợ nhà ở trong năm 2024 riêng 4 căn đã hoàn thành, giải ngân 280 triệu đồng. Những tên người gắn vào từng hạng mục không phải là con số trên giấy: Nguyễn Đình Chỉnh (thôn Đông Bảo Tuấn), Phùng Đắc Sơn (thôn Đồng Tâm), Nguyễn Thị Tân và Nguyễn Thị Sim (thôn Nam Bồng) – những mái nhà kiên cố mới đã che nắng, chắn gió cho cả gia đình qua mùa giá rét.

Ở thôn Mùng, 8 hộ nhận 16 con bò thương phẩm (2 con/hộ). Ở thôn Đông Bảo Tuấn, 16 hộ nhận 32 con bò. Ảnh: Xã Tuấn Đạo.
Tổ chức thực thi cũng thay đổi thói quen làm ăn. Trước kia, nhiều hộ “nuôi theo kinh nghiệm”, nay có lịch tiêm phòng, có sổ theo dõi, có lớp nghề 30 học viên về thuốc thú y để xử lý bệnh sớm cho bò, ong. Quỹ quay vòng nhỏ nhưng tạo kỷ luật tài chính trong cộng đồng: nhận hỗ trợ, sử dụng đúng mục đích – hoàn trả đúng hẹn để người khác có cơ hội. Khi mỗi hộ biết mình đang ở trong một chuỗi liên kết, ý thức trách nhiệm tăng lên.
Sinh kế chỉ bền khi đầu ra bền. Vì vậy, xã chủ động mời HTX đến “đặt hàng”, thống nhất tiêu chuẩn thu hoạch – bảo quản mật, thống nhất nhãn mác – truy xuất để đi xa hơn kênh chợ phiên. Cùng lúc, tổ ong giữ lại một phần mật thô để chế biến sản phẩm phụ: sáp, phấn hoa, mật đóng chai nhỏ – “gói giá” theo túi tiền khách. Người nuôi bớt lệ thuộc một mối, rủi ro giảm.

Ông Ngô Tuấn Xuân – hộ nuôi ong tiêu biểu ở thôn Đồng Xuân đi kiểm tra các cầu ong. Ảnh: Phạm Minh.
Dĩ nhiên, vẫn còn việc phải làm. Đội ngũ cán bộ thôn – xã cần thêm tập huấn để theo kịp văn bản hướng dẫn; thủ tục đầu tư hạ tầng cần được đẩy tiến độ; và quan trọng, phải gỡ tâm lý ỷ lại bằng cơ chế ràng buộc trách nhiệm – lợi ích rõ ràng. Chương trình MTQG tạo đường ray; nhưng chuyến tàu có chạy nhanh, chở được bao nhiêu “mật ngọt” ra thị trường, vẫn là do cách cầm lái của địa phương và ý chí của từng hộ.
Chiều xuống, ông Xuân kéo cầu ong, tiếng vù vù ngân như nhịp máy chăm chỉ. Ở một góc sân, cô con gái rửa chai để dán nhãn mẻ mật mới. Trên tường, tờ giấy ghi ba dòng “đúng kỹ thuật – đúng lịch – đúng hẹn quay vòng”. Ba “đúng” nhỏ, nhưng lại là thước đo cho một mô hình lớn: sinh kế ngọt ngào và bền bỉ từ chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.