Núi Giăng Màn là một phần của dãy Bắc Trường Sơn, phía nam tỉnh Hà Tĩnh và phía bắc tỉnh Quảng Bình. Dưới chân núi Giăng Màn có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống như Vân Kiều, người Khùa, người Sách, người Mã Liềng… Dưới chân núi hiểm trở ấy có những câu chuyện rất thú vị…
Bài 1: Luật của già bản
Già bản Nguyễn Sĩ Trắc nhớ lại cách đây gần 20 năm, ông đã đưa cả gia đình vào định cư ở giữa lòng rừng già Phong Nha và bản Đoòng được ra đời từ đó. Sau nhiều năm không có ai “quản lý”, đến giờ bản Đoòng đã thuộc về xã Tân Trạch, một xã rẻo cao của huyện Bố Trạch (Quảng Bình)...
Chỉ có già bản mới được bán rượu
Già bản Trắc (mọi người ở bản thường gọi bố Tòa) nói: “Làm việc với nhà báo phải có sổ sách đàng hoàng chớ...”. Nói xong, già đi lục trong túi đồ, lấy ra một tập giấy tờ rồi… báo cáo: “Bản có 11 hộ, 49 khẩu, không có trường học đâu. Mấy năm trước, Nhà nước cho 11 con bò, bản nuôi đã đẻ thêm được 4 con bê, bản còn có 5 con trâu. Cả bản có khoảng 20 ha đất, nằm giữa hai con suối là Hạ Đoòng và Thượng Đoòng. Chỗ nào cao thì làm nhà ở, phần đất thấp là cho trồng trọt...”.
Hỏi ra mới biết, già bản gốc gác ở Cam Lộ (tỉnh Quảng Trị), mấy đời trước phiêu bạt hay vì lý do gì đó mà di chuyển lên vùng núi dân tộc Vân Kiều, rồi khi đến thế hệ của già thì đã trở thành người Vân Kiều thứ thiệt. Tuy nhiên, khác với mọi người Vân Kiều đều mang họ Hồ, duy chỉ có già và các con cháu thì mang họ Nguyễn.
Trước đó, già Trắc định cư ở vùng núi Ba Rền, đến năm 1991, thấy vùng đất gặp khó khăn và tập tục du canh du cư nên già cùng bốn người nữa đi tìm vùng đất mới, sau đó quay về báo tin cho mọi người đến ở đến bây giờ. Hồi đó, giữa lòng rừng già Phong Nha còn hoang vu. Đêm đến, thú dữ đánh hơi kéo về đi vòng quanh từng ngôi nhà mới dựng. Phụ nữ và con nít sợ không dám thở mạnh, riêng cánh đàn ông phải tay dao, tay rựa và đốt lửa cả đêm để đuổi thú.
Ở bản Đoòng, già Trắc được toàn quyền quyết định mọi chuyện từ lớn đến bé. Vì vậy quyết định của già ai cũng phải thực hiện, đúng sai không cần biết. Có hai quy định vô cùng nghiêm ngặt, đó là chỉ già bản mới được bán rượu. Về điều này, già lý giải rất…hết lý: “Thứ nhất, nếu cho người ngoài bán, họ không can được người của bản uống nhiều và uống ngà ngà rồi mà vẫn bán thì tất uống say, đã uống say tất sinh chuyện không tốt. Thứ hai, nếu già bán khi phát hiện người uống đã ngà ngà thì bắt dừng lại ngay nên không có chuyện say rượu...”. Già cũng cấm tiệt không cho đánh bài ăn tiền và cấm gây gỗ đập đánh nhau. Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt, mức nhẹ thì phải nộp phạt nếp, ngô, gà, heo; mức nặng thì phạt tiền.
Xung quanh bản Đoòng, rừng xanh ngút ngàn và không hề có dấu tích của việc đốt rừng làm rẫy. Hỏi chuyện, già Trắc thản nhiên: “Vì dân bản đã thực hiện cam kết không đốt phá rừng với ngành kiểm lâm. Miềng (mình) đã hứa với kiểm lâm rồi. Mà miềng hứa thì coi như cả bản hứa rồi đó. Không có ai vi phạm mô...”. Đến mùa khô, bản Đoòng như một bốt chòi canh lửa cho rừng Phong Nha. Sát mái hiên nhà già bản có treo một tấm sắt to để làm kẻng báo hiệu. Khi trong bản có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra hay già làng cần triệu tập dân bản đến “quán triệt” việc gì đó thì già chỉ cần vung tay búa gõ kẻng. Tức khắc, người đang làm gì ở rừng xa, nghe tiếng kẻng cũng phải vội đạp băng rừng mà về. Từ khi treo chiếc kẻng lên đó, duy nhất có một người được quyền gõ kẻng là già bản, đó cũng là “luật bất thành văn”.
Ít có bản đồng bào dân tộc nào mà thế hệ bà con gần như bản Đoòng, bởi 11 gia đình thì có 4 là con của già bản, còn lại là anh em con chú con bác ruột tuốt. Vì vậy, một cái khó luôn luôn thường trực là người bản Đoòng không được lấy nhau. Con trai bản muốn lấy vợ phải đi bộ mấy ngày trời đến bản khác chơi, thấy người ưng ý thì ngỏ ý làm "lễ bỏ của" sau đó về nói với bố mẹ đến làm lễ cưới. Ngay trong gia đình già bản, các cô con dâu đều ở tận bản Rào Con, xã Sơn Trạch (Bố Trạch), hay xã Trường Sơn (huyện Quảng Ninh) xa tít tắp...
Cũng vì sự khó này mà con gái con trai của bản Đoòng tối đến ăn cơm xong chỉ đi loanh quanh nhà bà con, nói dăm câu chuyện nhẹ như lá rừng rồi về ngủ. Không có hẹn hò, không có chuyện đi “sim” ngoài rừng vì xung quanh đều là anh em... Bản có nhiều cô gái cũng xinh và đã đến tuổi lấy chồng nhưng suốt ngày hết gánh nước, nấu cơm, rồi nhìn ông mặt trời lặn khuất sau núi...
Cô gái Hồ Thị Chim được cho là xinh nhất bản với mái tóc dài và má lúm đồng tiền đã đến tuổi 18 mà vẫn chưa có người đến “nhìn mặt”. Chị dâu của Chim chỉ hơn Chim một tuổi đã có con bồng bế. Người nhà Chim kể lại rằng có người bên bản A Rem (dân tộc A Rem) ngỏ ý, nhưng Chim không đồng ý. Lỡ có ai hỏi thì Chim trả lời: “Không ưng người bên đó, rứa thôi...”.
Mong con trẻ được học cái chữ Trẻ em bản Đoòng mơ được đi học chữ
Già bản khoe: “Cái chi chớ sinh đẻ có kế hoạch ở bản Đoòng là được lắm, hiện phụ nữ đẻ được của bản chỉ còn hai người chưa đặt vòng tránh thai thôi vì nó mới đẻ chỉ một con mà...”. Già kể về chị Nguyễn Thị Bông (quê xã Sơn Trạch, Bố Trạch) vào bán hàng xáo ở bản. Chị Bông biết dân bản đẻ nhiều con thì khó khăn càng chồng chất. Cách đây 4 năm, chị Bông làm quen với vợ chồng anh Sắc, chị Hoa (con trai đầu của già Trắc) rồi vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Chị Hoa đồng ý, còn anh Sắc lắc đầu quầy quậy: “Không được mô, đẻ ít con tội chết...”. Kiên trì hơn tháng sau thì anh Sắc xuôi lòng cho vợ đi kế hoạch. Hôm sau, chị Bông “bí mật” dẫn chị Hoa băng rừng về trung tâm xã để đặt vòng tránh thai. Dọc đường đi, hai chị em cứ lo ông chồng đổi ý đuổi theo “bắt” vợ quay về thì công lao đổ xuống suối Đoòng hết. Bây giờ, gia đình anh Sắc có ba cậu con trai khoẻ như cây cuống tàu trong rừng. Chị Hoa thầm so sánh: “Nếu không kế hoạch e giờ cũng đã có 7 đứa con rồi. Cả nhà 9 người thì mỗi bữa ăn hết 7 lon gạo, nhiều rứa thì lấy mô ra...”.
Chuyện cho vợ đi kế hoạch anh Sắc cũng “liều mạng” giấu không cho bố biết. Bây giờ thấy là đúng và có hiệu quả trong thu xếp kinh tế gia đình. Già bản Trắc cứ cười khà khấc: “Ôi dào, bọn hắn làm chi mà già bản không biết. Chẳng qua là già biết, nhưng già... bỏ qua đó”.
Mấy năm trước, bản Đoòng còn trồng được lúa nước. Thậm chí lúa nhiều nên già bản bán bò mang hết số tiền gần 5 triệu đồng về thị trấn Hoàn Lão mua máy tuốt lúa để phục vụ bà con. Nhưng hai năm nay, nó nằm đắp chiếu, không phải hỏng hóc mà vì không có lúa để xay nữa. Thỉnh thoảng, già bản tìm cái tay quay ra quay cho nó nổ một chút rồi tắt chứ không để cho nó “chết im” như vậy thấy không đành lòng. Không thể trồng lúa, mọi người trồng bắp và đậu đen, giống các loại cây này phải mua từ đồng bằng lên. Cây mọc rất xanh tốt trên chân ruộng phì nhiêu.
Từ hồi rừng Phong Nha được bảo vệ nghiêm ngặt, thú rừng nhiều lên, nhất là lợn rừng. Bao nhiêu cọc rào đều bị chúng ủi phăng. Heo rừng nhiều, chồn, sóc cũng nhiều. Nhà chị Hoa nuôi đàn gà cứ bị hao dần, rồi chỉ còn lại một con vì làm chuồng kiểu gì cũng bị lũ chồn phá hay rình bắt. Thậm chí ổ gà mái ấp trứng, chị phòng xa buộc sát với chỗ ngủ thế mà đêm hôm trước con cáo vào cắn cổ con gà mái. Chị chỉ nghe “éc” một tiếng, dậy thắp đèn xem thì thấy ổ trứng trống không... Anh Sắc nhăn nhó: “Khó quá, không thể đánh bẫy được, vì săn thú là vi phạm đấy. Mà ngăn chúng thì làm sao ngăn được...”.
Với già bản Trắc thì chuyện thú rừng phá cây trồng cũng chưa đáng quan tâm lắm. Điều mà già đang lo ngay ngáy là việc thu xếp cho con trẻ học cái chữ. Nhiều bà mẹ cứ hay hỏi già là đã đề xuất với xã, huyện mở lớp cho con trẻ bản Đoòng xa xôi này chưa? Mấy bà mẹ hỏi cũng phải vì cả bản chỉ có già bản biết chữ do được học hồi tham gia bộ đội. Năm trước, có người bạn quân ngũ thời với già bản lên chơi, thấy vậy ở lại dạy chữ cho bọn trẻ. Đâu chừng một năm thì ông thầy phải về xuôi rồi không lên nữa. Một năm học chữ, không được dạy tiếp, cái chữ ở bản Đoòng rơi rớt theo từng bước chân người khi vào rừng. Bây giờ, không mấy ai còn nhớ được nữa...
Lúc chúng tôi về, già bản Trắc nói lời như nhắn nhủ: Mong cấp trên quan tâm chúng tôi hơn nữa, cho bản con đập ngăn nước để làm lúa, dân bản sẽ gùi vật liệu lên để xây dựng. Nếu không có lúa, hoa màu thì bị phá e năm nữa dân bản sẽ chết đói mất...