Nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh khoe tôi, vừa in xong tập thơ “Khát cháy” (song ngữ Việt Anh). Ông là người gắn bó cả cuộc đời, sự nghiệp với Thái Nguyên. Cầm tập thơ trên tay, thoang thoảng nghe mùi trà Thái. Chắc chắn, nhà thơ phải làm thơ về chè, trà quê hương ông! Thơ không viết về vẻ đẹp, tôn lên vẻ đẹp của đời sống thì viết cái gì?! Quả nhiên, tôi đoán không sai.
“Giống chè xa về đây bỗng thơm nưng nức/ Rễ râm ran ân ái đất lành/ Đẻ ra danh trà thơm phức”, (Trà Tân Cương). Những câu thơ của Nguyễn Đức Hạnh làm tôi nhớ đến vùng đất Tân Cương, nơi tôi từng đến.
Trà Thái Nguyên có tự bao giờ, mà “Giống chè xa về đây bỗng thơm nưng nức”. Ảnh: VCH.
Các nhà nghiên cứu về văn hóa trà Việt Nam hiện nay dựa vào cương thổ, địa lý; truyền thuyết và tư liệu lịch sử; tài liệu khảo cổ và các thư tịch khác... để trả lời câu hỏi: cây chè xuất hiện từ bao giờ mà trở thành thứ nước uống “quốc thủy” Việt Nam? Chắc chắn là lâu đời, bởi cùng với cây chè, nhiều nơi đã trở thành tên đất, tên làng, tên núi, tên sông. Có thể tạm nêu, xóm Bãi Chè (Phú Thọ); núi Chè (Hải Phòng); xóm Đồi Chè, chợ Mỏ Chè (Thái Nguyên)...
Giờ đây người Việt đã có đầy đủ chứng cứ khoa học đa ngành thuyết phục làm sáng tỏ nguồn gốc trà Việt. Theo đó, nguồn cội căn bản của trà Việt trải suốt 5.000 năm lịch sử.
Khi tôi đến La Bằng, được nghe Chủ tịch kiêm Giám đốc HTX Chè La Bằng, Nguyễn Thị Hải kể chuyện về cây chè cổ thụ núi Bóng, một ngọn núi thuộc dãy Tam Đảo. Hóa ra không chỉ núi Bóng. Nhà nghiên cứu trà Trịnh Quang Dũng cho rằng, rừng trà cổ thụ thiên nhiên ở Việt Nam bao phủ khắp cương vực Văn Lang, Âu Lạc, Đại Việt xa xưa. Theo ông, tuy chưa có tài liệu khoa học công bố một cách đầy đủ nhưng những gì chúng ta có trên thực tế, cho thấy trà cổ thụ ở Việt Nam đã có tuổi đời từ vài trăm năm đến vài nghìn năm và đang hiện hữu. Thực tế hiển nhiên này là chứng cứ thuyết phục nhất, xác định Việt Nam là quê hương, một trong những cái nôi phát tích của trà thế giới.
Trà Thái Nguyên, nhất là danh trà Tân Cương và cây chè có từ bao giờ? Mà “Giống chè xa về đây bỗng thơm nưng nức” - câu thơ của Nguyễn Đức Hạnh bám riết lấy tôi như một câu hỏi.
Bà Đào Thanh Hảo - Chủ nhiệm Hợp tác xã Chè Hảo Đạt (đơn vị chè OCOP 5 sao duy nhất tại Thái Nguyên) chia sẻ với tác giả những câu chuyện về chè và trà Thái. Ảnh: VCH.
Nói đến trà cổ thụ, không thể không nhắc đến Shan cổ thụ của vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn. Dù “lãnh địa”, cương thổ của Shan cổ thụ nay chỉ còn ở vùng rừng núi Tây Bắc, nhưng chủ nhân của “Mỏ Shan tuyết” cổ thụ kia vẫn là đồng bào các dân tộc Dao, Mông, Tày, Nùng, Thái, Hà Nhì, Cao Lan... Họ là hậu duệ của dân Bách Việt từ xa xưa.
Trên vùng đất văn hóa, lịch sử Thái Nguyên, năm 2009, trong một lần đi kiểm tra lâm phần, một cán bộ cơ sở tìm thấy khu rừng nguyên sinh núi Bóng, thuộc xã Minh Tiến, huyện Đại Từ (nay là xã Đức Lương, tỉnh Thái Nguyên). Tại đây, cây chè đại thụ cổ trên độ cao 851m (so với mặt nước biển); cây to nhất đường kính gần 1m, thân gỗ cỡ hai người ôm, thân cây cao tới 30m được phát hiện. Người đi qua, không phải ai cũng nhận ra “cụ chè”.
Trải 5.000 năm, cây chè từ “quốc thủy” dân dã bước vào cung đình, từ sản phẩm bình dân đến thương hiệu hàng hóa. Trà Việt Nam bước từ cương thổ bản địa ra thế giới, cùng hội nhập.
Những năm 70 của thế kỷ trước, Viện sỹ K.M.Djemukhatze thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô từng ghi cảm tưởng: “Tôi đã đi qua 120 nước có cây chè trên thế giới nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là nơi phát tích của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè thế giới”.
Năm 1974, chính K.M. Djemukhatze, sau thời gian dài làm việc tại Việt Nam đã hoàn tất công trình chuyên khảo công phu về cây chè Việt để công bố tại Hội nghị Thực vật học toàn cầu lần thứ 12 (1974), sau đó được ấn hành thành sách vào năm 1976 với tên “Cây chè ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Văn minh trà Việt là một phạm trù văn hóa, rộng mênh mông. Chỉ biết trà Việt và cây chè Việt đã đi vào thư tịch cổ. Văn bản sớm nhất về trà lưu trong sử sách từ năm 959. Chỉ riêng uống trà, trong “An Nam chí lược” của sử gia đời Trần, Lê Tắc (1263 - 1342) mô tả tục uống trà của người Việt ở thế kỷ XIV đã trở thành nghi thức lễ hội.
“Ngày 30 Tết, vua ngồi ở cửa Đoan Củng, các bề tôi đều làm lễ, rồi xem các con hát múa trăm lối. Tối lại qua cung Động Nhân bái yết Tiên - Vương. Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội, làm lễ “Khu Ma” (lễ đuổi ma quỷ). Dân gian thì mở cửa đốt pháo tre, cỗ bàn, trà rượu cúng tổ”.
Tục dùng trà làm vật phẩm cúng Phật, cúng gia tiên trong văn hóa tâm linh người Việt đã có từ xa xưa. Trà là món quà trân quý, không thể nào thiếu được trong lễ ăn hỏi, cưới xin, giao tiếp. Hay nói cách khác, trà là vật phẩm gắn bó mật thiết với người Việt từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho tới khi trở về cát bụi.
Tháng 5/2025, khi trở lại Thái Nguyên, có dịp đến Hợp tác xã Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên, Hợp tác xã Chè Hảo Đạt (đơn vị chè OCOP 5 sao duy nhất tại Thái Nguyên cho đến hiện nay) trên đất chè Tân Cương, tôi ngạc nghiên khi được thưởng lãm các “bát hoa” trên bàn không phải bằng các loài hoa như thường thấy mà bằng các ngọn chè. Các ngọn chè tươi thắm cắm trên các miếng xốp cắm hoa thật bản sắc, gần gũi.
Một góc không gian HTX Chè Hảo Đạt. Ảnh: HTX cung cấp.
Trong lịch sử, văn minh trà có “Tục tị ẩm” (uống bằng mũi) được ghi chép trong sách “Thủy kinh chú sớ” từ thế kỷ II TCN và song hành cùng người Việt đến thế kỷ XIII. Trong sách “Tế lễ bốn mùa, lễ Khai ấn” thời Lê - Trịnh có quy định dâng trà cúng rất cụ thể.
Uống trà với người Việt không còn là giải khát đơn thuần mà dần dần trở thành triết lý trà; trong đó có tính kết nối cộng đồng. “Trưa nắng hè, gọi nhau râm ran chè xanh" (Ca dao em và tôi, An Thuyên); uống nước chè hoặc uống trà trở thành hoạt động “kết dính” gắn kết con người trong sinh hoạt, góp phần làm thăng hoa văn hóa làng xã của người Việt. Dù là trong dân gian hay tâm linh... các tập tục thưởng trà dần dần hình thành nên nghệ thuật thưởng trà Việt. Thưởng trà trở thành nghi lễ, thành trà đạo.
Hiện nay trên đất chè Thái Nguyên, từ các đơn vị tham gia chuỗi kinh tế du lịch như Hợp tác xã Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên cho đến các không gian văn hóa trà khác đều tham gia có các hoạt động thưởng trà. Đó là những không gian đẹp, văn hóa; lực lượng lao động trẻ, vẫn được gọi là “trà nương” ngày càng được đầu tư bài bản, chuyên nghiệp.
Thật thú vị, sách “Đại Nam nhất thống chí” triều Nguyễn (1802- 1945) minh bạch nghiệp chè Thái Nguyên, đã tồn tại ít nhất từ hai thế kỷ trước, nghĩa là hơn hai trăm năm. Bây giờ Thái Nguyên, với các địa danh làm nên thương hiệu “Tứ đại danh trà” là Tân Cương, La Bằng, Trại Cài, Khe Cốc ngày càng khẳng định là “thủ phủ” của chè và trà ngon nhất nước.
Chè cổ ở Thái Nguyên không chỉ được phát hiện ở núi Bóng mà còn ở núi Hồng. Từ năm 2024, những búp trà núi Bóng được nâng niu, chăm chút chính thức ra đời phẩm trà nhãn hiệu núi Bóng. Ngọn núi bên sườn Đông của dãy Tam Đảo, nơi có chè Shan cổ thụ gắn với nhiều huyền sử thời nhà Mạc. Và câu hỏi nguồn gốc chè núi Bóng cho đến bây giờ vẫn còn để ngỏ.
Ngay như địa danh Tân Cương vẫn còn được bao phủ bởi nhiều màn sương huyền thoại khác. Khẩu truyền rằng: “Ngày xửa, ngày xưa, có một quý nhân mang hạt cây chè từ Tây Tạng về trồng ở núi Guộc”. Đây là một trong những lời truyền hiếm hoi về dấu vết của cây chè từ đất Ba Thục xa xưa, thuở Thục phán An Dương vương trên đất Tân Cương.
Hàng trăm năm nay, từ những người có công khai khẩn, mở đất, lập nghiệp trà... cho đến hậu duệ của gia tộc họ Phạm Văn (vợ chồng ông Phạm Tiến Đạt và Đào Thanh Hảo - nữ “thuyền trưởng” dẫn dắt Hợp tác xã Chè Hảo Đạt hiện nay) đã và đang bảo tồn, gìn giữ, phát huy danh thơm đệ nhất danh trà.
Đó là hành trình vất vả, cực nhọc của nhiều thế hệ. Nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh trong bài thơ “Bã trà” có viết: “Bã nát thương người nát/ Bã trà phảng phất thơm/ Nước sôi dìm thân phận/ Nước nguội ngâm cô đơn”. “Bã trà” là ẩn dụ của thân phận, dù nát vẫn phảng phất thơm. Để có “danh thơm”, phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt./.
























