Doanh nghiệp còn ngần ngại
Số liệu từ Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam phát sinh hơn 69.000 tấn rác mỗi ngày, phần lớn tập trung ở đô thị. Dù tỷ lệ thu gom đạt trên 97% tại các đô thị, nhưng chủ yếu là rác hỗn hợp chưa phân loại.
Sau sáp nhập, phạm vi địa giới hành chính mở rộng, dẫn đến khối lượng rác thải sinh hoạt tại xã/phường tăng lên. Tuy nhiên, mới chỉ có 6 trong số 34 tỉnh, thành phố ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật hoặc giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý. Điều này dẫn đến hệ thống quản lý rác thải sinh hoạt nhiều nơi bị quá tải.
Trong bối cảnh đó, cơ chế đối tác công tư (PPP) trong xử lý rác vẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư tư nhân. Chia sẻ tại Hội thảo “Kinh nghiệm thu hút đầu tư tư nhân, hợp tác công tư trong các dự án chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam” mới đây, TS. Nguyễn Đình Đáp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chia sẻ: Luật Bảo vệ môi trường đã có nhiều quy định cụ thể về phân loại rác tại nguồn và chuyển dịch chuyển sang mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm áp lực lên bãi chôn lấp và tạo không gian cho công nghệ hiện đại phát triển. Nhà nước cũng đã có cơ chế hỗ trợ như ưu đãi thuế, vay vốn từ Quỹ Bảo vệ môi trường hay hỗ trợ đất đai... Tuy nhiên, khi đặt trong khung PPP, các yêu cầu này chưa thể tự mình tạo ra sức hút đối với nhà đầu tư.
Nguồn rác chưa phân loại khiến việc đốt rác phát điện có thể không đạt hiệu quả như thiết kế nhà máy. Ảnh: Khánh Ly.
Lý do chủ yếu nằm ở hạ tầng phân loại tại các địa phương chưa đồng bộ, hệ thống thu gom còn manh mún và phương tiện lạc hậu khiến rác đầu vào không phù hợp với công nghệ công nghệ tái chế hoặc đốt phát điện, dẫn đến rủi ro tài chính lớn cho nhà đầu tư. Việc thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro, bảo lãnh đầu ra hay hỗ trợ tín dụng cũng làm giảm sức hút đối với lĩnh vực này.
Nêu dẫn chứng từ thực tiễn, TS. Nguyễn Đình Trọng, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ T-Tech cho biết, rác chưa phân loại, độ ẩm cao, chất hữu cơ chiếm tỷ lệ lớn khiến nhiều công nghệ đốt hoặc tái chế không đạt hiệu quả như thiết kế. Khi đầu vào không ổn định, nhà máy dễ gặp sự cố, tần suất vận hành giảm, chi phí sửa chữa tăng. Bên cạnh đó, đơn giá xử lý do địa phương ban hành lại thấp và thiếu ổn định do nhiều yếu tố, nhất là bị giới hạn bởi khả năng chi trả của người dân. Nhiều dự án đứng trước bài toán “đầu tư lớn – thu về thấp”, khiến khu vực tư nhân không mạnh dạn cam kết trong dài hạn.
Ưu tiên xử lý rác gắn với giảm phát thải khí nhà kính
Tháng 5/2025, Bộ Công Thương đã phê duyệt khung giá phát điện nhà máy điện chất thải năm 2025, trong đó có loại hình nhà máy điện rác (chất thải rắn). Việc điều chỉnh khung giá điện và cập nhật Quy hoạch điện VIII đã đưa điện rác vào danh mục các loại hình cần ưu tiên phát triển. Bởi lẽ, bên cạnh việc tạo ra nguồn năng lượng tái tạo, điện rác còn góp phần giải quyết bài toán ô nhiễm môi trường đô thị, một vấn đề đang ngày càng trở nên bức xúc tại nhiều địa phương.
Cơ chế giá đã khởi sắc, nhưng khung chính sách về xã hội hóa các khâu xử lý chất thải rắn sinh hoạt vẫn cần được cải thiện thêm. PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam cho rằng, trước hết, các cơ quan chức năng cần hoàn thiện quy hoạch mạng lưới thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ thuật - môi trường cho dự án; xây dựng cơ chế giá dịch vụ và phí rác minh bạch, đủ bù chi phí. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư theo hướng công khai, minh bạch, tăng giám sát và trách nhiệm giải trình…
Theo TS. Nguyễn Đình Đáp, Việt Nam cần bắt đầu từ việc quản lý chất thải một cách đồng bộ, tránh thay đổi liên tục hoặc thiếu rõ ràng khiến việc triển khai không đồng bộ. Trong đó, phân loại tại nguồn phải trở thành nền tảng thực chất chứ không chỉ trên quy định. Khi người dân phân loại đúng và hệ thống thu gom đi theo từng dòng rác, nhà đầu tư mới có thể thiết kế công nghệ phù hợp và tối ưu hóa chi phí vận hành. Việc minh bạch các loại chi phí và giá dịch vụ xử lý rác cũng sẽ giúp tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Lấy ví dụ, người dân trả phí bằng cách mua bao bì theo dung tích hoặc cân rác tại điểm tập kết. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể dự báo ổn định lượng rác được xử lý trong nhiều năm.
Việc minh bạch các loại chi phí và giá dịch vụ xử lý rác cũng sẽ giúp tạo niềm tin cho nhà đầu tư các nhà máy điện rác. Ảnh: Phương Linh.
Chuyên gia cũng đề xuất giải pháp “địa phương hóa” mô hình PPP, tức là giao cho địa phương linh hoạt lựa chọn công nghệ phù hợp với đặc tính rác của mình. Thực tiễn cho thấy, mỗi địa phương có mức độ đô thị hóa, nguồn lực và hạ tầng môi trường khác nhau, do đó, khó có thể áp dụng một công nghệ chung cho toàn quốc.
Một thuận lợi là hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn và thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0”. Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu kéo giảm tỷ lệ chôn lấp chất thải rắn xuống dưới 10%, nhằm cắt giảm mạnh nguồn phát thải mê-tan từ bãi rác. Các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội sẽ đi đầu trong xử lý bằng công nghệ đốt rác phát điện, nhằm giảm khối lượng chôn lấp, vừa thu hồi năng lượng, góp phần thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch.
Sự ra đời của Danh mục phân loại xanh năm 2025 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để nhận diện, đánh giá và ưu tiên các dự án xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo tiêu chí bền vững. Đây cũng là chỉ hướng quan trọng để nhà đầu tư lựa chọn loại hình dự án để tận dụng tối đa các cơ chế ưu đãi của Nhà nước cũng như các quỹ tài chính xanh.
Phát thải từ bãi chôn lấp chất thải rắn đóng góp hơn 50% tổng phát thải khí nhà kính của toàn lĩnh vực quản lý chất thải. Trong Đóng góp do Quyết định (NDC), Việt Nam đặt mục tiêu giảm 10% tốc độ gia tăng chất thải rắn sinh hoạt vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường (với giả định mức tăng bình quân 7,1%). Đáng chú ý, kết quả theo dõi cho thấy lượng chất thải rắn sinh hoạt bình quân đầu người thực tế năm 2023 đã giảm 15,2% so với mức giả định, cho thấy các biện pháp quản lý bước đầu phát huy hiệu quả.





























