Hương vị "tiền chát hậu ngọt" quyện hương cốm
Là tỉnh miền núi Bắc Bộ, Thái Nguyên có nhiều lợi thế về đất đai, thổ nhưỡng để phát triển cây chè. Nhắc tới Thái Nguyên là nhắc tới vùng đất của tứ đại danh trà: Tân Cương, La Bằng, Trại Cài và Khe Cốc với mỗi vùng đều có những đặc điểm riêng biệt tạo nên sản phẩm trà đa dạng của Thái Nguyên.
Theo TS Đỗ Ngọc Văn - Viện trưởng Viện Nghiên cứu các vấn đề xã hội, chè Thái Nguyên không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp mà còn là biểu tượng văn hóa, tinh thần và kinh tế của vùng đất này.

TS Đỗ Ngọc Văn - Viện trưởng Viện Nghiên cứu các vấn đề xã hội. Ảnh: Quang Linh.
Từ thời nhà Nguyễn, trong sách Đại Nam nhất thống chí thời vua Tự Đức (1848-1883), các sử gia đã ghi chép rằng chè Nam ở huyện Phú Lương cũ (nay là xã Phú Lương, Thái Nguyên) có vị ngon hơn chè các nơi khác. Tuy nhiên, cụm từ "trăm năm đệ nhất danh trà" được nhắc tới hôm nay đánh dấu cột mốc từ đầu thế kỷ 20 khi chè Tân Cương trở nên nổi tiếng.
Theo người dân trồng chè lâu năm tại Thái Nguyên, địa danh Tân Cương bắt đầu xuất hiện ở Thủ đô kháng chiến từ năm 1922. Khởi nguồn từ việc ông Đội Năm (tên thật là Vũ Văn Hiệt) giúp người dân khai hoang, mở đất rồi lấy giống chè trung du từ trại chè Phú Hộ (Phú Thọ) về trồng.
Nhờ điều kiện khí hậu ôn hòa, thổ nhưỡng phù hợp cùng với kỹ thuật trồng, chăm sóc lâu năm của người dân nên chè Tân Cương có mùi vị thơm ngon khác biệt, từng đoạt giải Nhất tại hội chợ Đấu Xảo năm 1935. Có thể nói, chính giống chè trung du đã tạo nên hồn cốt cho thương hiệu chè Tân Cương với hương thơm cốm, vị chát dịu và hậu ngọt sâu lắng.
Ngày nay, trong khi nhiều vùng chè khác đang chuyển đổi sang trồng những giống chè lai cho năng suất cao thì tại Tân Cương vẫn lưu giữ được các nông trại chè trung du truyền thống, mang hương vị “tiền chát hậu ngọt” mà không giống chè lai nào có được.
Chè trung du có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng địa phương và cho chất lượng chè cao, hương vị đậm đà. Để duy trì được giống chè cổ này đòi phải kỹ thuật cao về canh tác hữu cơ, cùng với kinh nghiệm hái và sao chè thủ công.

Giống chè trung du cổ luôn nhận được sự quan tâm lớn từ giới sành trà. Ảnh: Quang Linh.
Đau đáu về giống chè trung du cổ
Vào tháng 9/2017, vùng chè Tân Cương được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Giấy chứng nhận đăng ký Chỉ dẫn địa lý "Tân Cương" cho sản phẩm chè Tân Cương, nhiều người không khỏi bất ngờ khi con số thống kê cho thấy vùng chè Tân Cương chỉ có 20% diện tích là chè bản địa (chè trung du lá nhỏ), 80% còn lại là chè lai ngoại. Điều này dấy lên nỗi lo về việc bảo tồn giống chè trung du có nguy cơ bị mai một trầm trọng do người dân chạy theo năng suất.
Trong bối cảnh đó, nhiều giám đốc hợp tác xã chè tại Thái Nguyên đã tiên phong cải tạo và phát triển giống chè trung du cổ để bảo vệ giá trị lịch sử và chứng minh những lợi ích to lớn mà giống chè này mang lại trên thị trường.
Với quan niệm "muốn có trà ngon, trước hết phải bắt đầu từ giống chè tốt", nông trại trà trung du của HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên (xã Tân Cương) đã dành nhiều thời gian và công sức để tuyển chọn giống chè trung du cổ, trước khi triển khai mô hình canh tác hữu cơ.

Ông Bùi Trọng Đại (ngoài cùng bên trái) tại Vùng chè của HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên. Ảnh: Quang Linh.
Ông Bùi Trọng Đại - Giám đốc HTX Tiến Yên chia sẻ, giống chè trung du cổ chính là linh hồn tạo nên danh tiếng cho vùng chè Tân Cương. Mặc dù hiện nay các giống chè lai với năng suất cao ngày càng phổ biến, nhưng trong giới yêu trà, chè trung du vẫn giữ một vị trí khó thay thế bởi hương thơm thanh khiết và giá trị truyền thống của nó.
"Giống chè trung du cổ của vùng này không chỉ có hương vị riêng biệt mà còn phản ánh chiều sâu văn hóa, lịch sử và nghệ thuật trà Thái Nguyên", ông Đại cho biết thêm.
Hiện nay, HTX Tiến Yên đang duy trì hơn 1ha chè trung du lá nhỏ. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ, độ ẩm phù hợp cộng với bí quyết canh tác được tích lũy qua nhiều năm, vùng chè của HTX cho ra những búp trà đều, xanh khỏe và giàu hương vị.

Hiện nay, các HTX trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên rất chú trụng bảo tồn và phát huy giống chè trung du cổ. Ảnh: Quang Linh.
Theo ông Đại, toàn bộ khu vực canh tác đều được chăm sóc bằng phân bón hữu cơ ủ từ phân chuồng kết hợp với men vi sinh và các chế phẩm từ thảo mộc để phòng trừ sâu bệnh tự nhiên. Nhờ đó, cây chè phát triển khỏe mạnh, ít sâu bệnh, đất luôn tơi xốp, giàu dinh dưỡng.
Đặc biệt, để đảm bảo đúng quy trình sản xuất trà hữu cơ, toàn bộ cỏ dại đều được nhổ bằng tay hoặc kéo thủ công. Khi phát sinh dịch hại, HTX không tự ý dùng thuốc hóa học mà chủ động phối hợp với cơ quan chuyên môn bảo vệ thực vật để có phương án xử lý an toàn, hiệu quả.
Thực tế cho thấy, nếu tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn canh tác hữu cơ và kiên trì theo đuổi phương pháp này, từ vụ thứ ba trở đi, năng suất và sản lượng không hề thua kém phương thức sản xuất thông thường. Chính vì vậy, HTX Tiến Yên hiện không chạy theo việc mở rộng diện tích mà tập trung tối đa vào việc nâng cao chất lượng từng nương chè đang có.