* Cháu xem chương trình có giới thiệu về cây “Giảo cổ lam”, cháu thấy cây này rất giống cây “sàn sạt” ở địa phương cháu. Cháu muốn hỏi cây “sàn sạt” có phải là cây Giảo cổ lam hay không? Cây sàn sạt có quả chín giống quả mồng tơi? Cây giảo cổ lam
Nguyễn Quốc Hải – THPT Mỹ Đức A – Hà Nội
Giảo cổ lam là phiên âm Hán Việt, còn gọi là dây lõa hùng, trường sinh thảo hoặc thất diệp đảm, ngũ diệp sâm với danh pháp khoa học là Gynostemma pentaphyllum thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae). Nó là một loài cây thảo có thân mảnh, leo nhờ tua cuốn đơn ở nách lá. Cây đực và cây cái riêng biệt. Lá kép hình chân vịt. Cụm hoa hình chuỳ mang nhiều hoa nhỏ màu trắng, các cánh hoa rời nhau xoè hình sao, bao phấn dính thành đĩa, bầu có 3 vòi nhuỵ. Quả khô hình cầu, đường kính 5 - 9 mm, khi chín màu đen.
Cây mọc ở độ cao 200 - 2.000 m, trong các rừng thưa và ẩm ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Indonesia, Triều Tiên và một số nước châu Á khác. Thành phần hóa học chính của thất diệp đảm là flavonoit và saponin. Số saponin của thất diệp đảm nhiều gấp 3 - 4 lần so với nhân sâm. Trong đó, một số có cấu trúc hoá học giống như cấu trúc có trong nhân sâm (ginsenozit). Ngoài ra thất diệp đảm còn chứa các vitamin và các chất khoáng như selen, kẽm, sắt, mangan, phốtpho...
Thất diệp đảm là cây thuốc đã được dùng theo y học cổ truyền Trung Quốc. Người Trung Quốc từ lâu xem cây này như thuốc trường sinh, bởi lẽ người dân ở tỉnh Quý Châu uống trà thất diệp đảm thường xuyên thì sống rất thọ. Cây này còn được gọi là nhân sâm phương Nam hay nhân sâm 5 lá, mặc dù thực tế loài này không có họ hàng gì với nhân sâm đích thực. Cây này cũng được dùng ở Nhật Bản với tên amachazuru, ở Hàn Quốc với tên gọi dungkulcha và nhiều nước khác.
Ở Việt Nam, vào năm 1997 giáo sư Phạm Thanh Kỳ (Đại học Dược Hà Nội) đã phát hiện cây thất diệp đảm trên núi Phan Xi Păng và được giáo sư Vũ Văn Chuyên (Đại học Dược Hà Nội) xác định đúng là loại Gynostemma pentaphyllum. Ngoài ra, thất diệp đảm còn được tìm thấy ở một số địa phương thuộc vùng đồi núi phía Bắc.
Cây Sàn sạt là loài cây khác, còn có tên Luật thảo, tên khoa học là Humulus scandens, họ Gai mèo (Cannabaceae). Là loại cây dây leo quấn dài 6 - 8m. Cả thân, cành, lá đều có lông nhám. Lá mọc đối, gần gốc thì hình tim, xa gốc xẻ 3 - 5 thuỳ hình chân vịt, rộng 8 - 10cm, mép răng cưa, cuống lá dài 8 - 10cm. Cụm hoa mọc ở kẽ lá gồm nhiều hoa nhỏ, đực cái khác gốc. Hoa đực mọc thành chùm dài, màu đỏ nhạt. Hoa cái thành sim co gần hình cầu, màu vàng nhạt. Cây mọc hoang dại trong rừng, ở đồng bằng cây thường mọc trùm lên các bụi cây khác. Trâu bò rất thích ăn dây, lá này...
* Xin cho biết về cây trầu không và tác dụng của lá trầu không. Vì sao cháu trồng 3 lần đều bị nổ đốt rồi chết?
Nguyễn Thị Sản – Vân Nội – Đông Anh – Hà Nội
Trầu không (tên khoa học là Piper betle) thuộc họ Hồ tiêu, là một loài cây gia vị hay cây thuốc, lá của nó có các tính chất dược học. Đây là loài cây thường xanh, loại dây leo và sống lâu năm, với các lá hình trái tim có mặt bóng và các hoa đuôi sóc màu trắng, có thể cao tới 1m. Loài này có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á và được trồng ở Ấn Độ, Indonesia, Sri Lanka, Việt Nam, Malaysia. Ở Việt Nam có hai loại trầu chính: Trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, nhỏ lá, được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu...
Tôi không hiểu cháu nói hiện tượng nổ đốt là thế nào nên không thể giải thích được. Cây chết có thể do chỗ đất đó có yếu tố gì không thích hợp hay là cây bị bệnh. Bây giờ ít người trồng trầu không vì càng ngày càng ít người ăn trầu không, hình như chỉ còn dùng với tính tượng trưng trong các lễ ăn hỏi mà thôi. Đôi khi lấy lá trầu không dùng để giã nhỏ, thêm nước sôi để chữa các vết loét, mẩn ngứa, chữa viêm kết mạc mắt, chàm mặt trẻ em. Có nơi còn giã lá trầu không đắp lên ngực để chữa ho hen hoặc đắp lên vú để ngừng tiết sữa. Cháu tìm chỗ đất khác để trồng chắc không có gì khó khăn lắm.