Sáng 27/11 tại Hà Nội, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp cùng WWF Việt Nam tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học trong lĩnh vực thủy sản theo tiếp cận Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Kunming - Montreal (GBF) tại Việt Nam”. Sự kiện có sự tham dự của Bà Lê Thu Hương, đại diện Cơ quan phát triển Pháp AFD - Nhà tài trợ Dự án “Thúc đẩy thực hiện quản lý rừng bền vững và đa dạng sinh học ở Việt Nam” (BIODEV2030), cùng đại diện các Sở Nông nghiệp và Môi trường, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế và các hiệp hội chuyên ngành.
Hội thảo “Thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học trong lĩnh vực thủy sản theo tiếp cận Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Kunming - Montreal (GBF) tại Việt Nam” được tổ chức vào sáng 27/11. Ảnh: Hồng Ngọc.
Bà Nguyễn Thị Phương Dung, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Cục Thủy sản và Kiểm Ngư nhấn mạnh tầm quan trọng của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Kunming - Montreal, được thông qua tại COP15 vào tháng 12/2022, coi đây không chỉ là cam kết quốc tế mà còn là định hướng toàn cầu về bảo tồn thiên nhiên, phục hồi hệ sinh thái và sử dụng bền vững tài nguyên đến năm 2030 và tầm nhìn 2050.
Bà Nguyễn Thị Phương Dung, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Cục Thủy sản và Kiểm Ngư, phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Hồng Ngọc.
Bà Dung cho biết Cục Thủy sản và Kiểm Ngư đã phối hợp WWF Việt Nam trong khuôn khổ Dự án “Thúc đẩy thực hiện quản lý rừng bền vững và đa dạng sinh học ở Việt Nam” (BIODEV2030), cùng với IUCN, xây dựng Dự thảo Kế hoạch hành động của ngành Thủy sản Việt Nam thực hiện Khung GBF đến năm 2030. Dự thảo đề ra các mục tiêu rõ ràng, định hướng bao quát và nhiều giải pháp trọng tâm nhằm bảo vệ hệ sinh thái biển, tăng cường quản lý nguồn lợi, thúc đẩy nuôi trồng và khai thác bền vững, củng cố vai trò cộng đồng và huy động nguồn lực để triển khai hiệu quả Khung GBF.
Theo bà Dung đây là diễn đàn nhằm chia sẻ minh bạch định hướng của Bộ NN-MT; giới thiệu dự thảo kế hoạch hành động; tạo không gian đối thoại giữa trung ương - địa phương - doanh nghiệp - tổ chức quốc tế; lắng nghe kinh nghiệm từ các mô hình thực tiễn; đồng thời tiếp thu ý kiến góp ý để hoàn thiện dự thảo trước khi trình Bộ xem xét. Bà gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cơ quan trong Bộ, các sở NN-MT, các tổ chức quốc tế và giới học thuật đã đồng hành, đồng thời tri ân sự hỗ trợ của dự án BIODEV2030 và WWF Việt Nam trong quá trình xây dựng kế hoạch hành động.
Ông Hoàng Việt, Trưởng Đại diện WWF Việt Nam, cho biết việc hài hòa và triển khai hiệu quả các mục tiêu đa dạng sinh học toàn cầu đang là câu hỏi quan trọng hiện nay. Ông khẳng định WWF sẵn sàng đồng hành cùng ngành lâm nghiệp và thủy sản, từ đối thoại chính sách, truyền thông nâng cao nhận thức cho đến xây dựng các mô hình thí điểm. “Đây là cơ hội để chúng ta lắng nghe cởi mở, cùng nhau đề xuất giải pháp. WWF cam kết tiếp tục đồng hành và huy động nguồn lực hỗ trợ, biến các cam kết thành hành động cụ thể”, ông nhấn mạnh.
Ông Hoàng Việt, Trưởng Đại diện WWF Việt Nam, phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Hồng Ngọc.
Ở góc nhìn doanh nghiệp, ông Lâm Thái Xuyên, Giám đốc doanh nghiệp xã hội chuỗi tôm rừng Minh Phú (thuộc Công ty cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú) cho hay, thách thức lớn nhất trong nuôi tôm bền vững hiện nay là tỷ lệ vùng nuôi đạt chứng nhận còn rất thấp, chỉ khoảng 10%, trong khi tôm thu mua từ cộng đồng phần lớn chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, từ năm 2013, Minh Phú đã phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng vùng nuôi selva shrimp và sau bốn năm, thành lập Công ty Tôm Chứng nhận Minh Phú nhằm chuyên nghiệp hóa mô hình.
Ông Lâm Thái Xuyên, Giám đốc doanh nghiệp xã hội chuỗi tôm rừng Minh Phú (thuộc Công ty cổ phần Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú), chia sẻ thách thức lớn nhất trong nuôi tôm bền vững. Ảnh: Hồng Ngọc.
Ông Xuyên cho rằng sự thành công của chuỗi giá trị tôm sinh thái phụ thuộc vào hợp tác đa bên theo mô hình 4P (Nhà nước - doanh nghiệp - cộng đồng - đối tác), trong đó có sự đồng hành chặt chẽ của các tổ chức phát triển như WWF. Ông cũng dẫn ví dụ từ loài cá kèo để minh họa yêu cầu hiểu đúng điều kiện sinh thái: cá kèo chỉ sống được trong nền đất sâu phù hợp nuôi công nghiệp; còn tại các vùng quảng canh, loài này thiếu nơi trú ẩn và nguồn thức ăn, cho thấy kỹ thuật nuôi phải gắn với đặc tính tự nhiên của từng loài.
Các đại biểu tại hội thảo cũng quan tâm đến vai trò hệ thống rừng đối với bảo vệ đa dạng sinh học thủy sinh. Ông Vũ Thành Nam, Trưởng phòng Sử dụng rừng và Thương mại Lâm sản, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, Việt Nam hiện có 176 khu rừng đặc dụng, song nhiều khu còn phân tán và manh mún; trong khi hơn 200.000 ha rừng ngập mặn đang đóng vai trò then chốt trong ổn định hệ sinh thái rừng - biển. Cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng không chỉ nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong giám sát, bảo vệ hệ sinh thái rừng mà còn góp phần tạo động lực cho các mô hình sản xuất thân thiện với môi trường, bao gồm cả nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng. Việc quản lý hiệu quả khoảng 60% diện tích rừng, theo ông, sẽ góp phần nâng cao sinh kế người dân, đồng thời bảo vệ tài nguyên và đa dạng sinh học lâu dài.
Hội thảo ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp thiết thực nhằm hoàn thiện Kế hoạch hành động thực hiện Khung GBF cho ngành thủy sản, thể hiện quyết tâm của Cục Thủy sản và Kiểm Ngư trong việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế, thúc đẩy bảo vệ hệ sinh thái biển, phát triển kinh tế biển xanh và tăng cường quản lý nguồn lợi một cách bền vững đến năm 2030.















