Từ chính sách đến mô hình thực tiễn
Trong lộ trình thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 theo tuyên bố tại COP26, giảm phát thải khí nhà kính đang trở thành yêu cầu xuyên suốt trong hoạch định và triển khai các chính sách phát triển của Việt Nam. Tại An Giang, lĩnh vực nông nghiệp vốn chiếm tỷ trọng lớn về phát thải, đang được xác định là một trong những trụ cột quan trọng để hiện thực hóa nhiệm vụ các-bon thông qua các giải pháp cụ thể, có thể đo đếm và kiểm kê.
Canh tác lúa theo hướng phát thải thấp tại An Giang, áp dụng “1 phải, 5 giảm”, tưới ngập khô xen kẽ và quản lý rơm rạ, vừa giảm phát thải khí mê-tan vừa nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, trong năm 2025, tỉnh đã từng bước triển khai các nội dung liên quan đến giảm phát thải khí nhà kính gắn với thực hiện kế hoạch giảm phát thải theo Thỏa thuận Paris và cam kết khí hậu tại COP26. Trọng tâm là lồng ghép mục tiêu giảm phát thải vào các chương trình, đề án sản xuất nông nghiệp, quản lý đất đai, lâm nghiệp và sử dụng tài nguyên.
Đáng chú ý, An Giang là một trong những địa phương tích cực tham gia các chương trình, đề án quốc gia và vùng về giảm phát thải, trong đó có Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đây được xem là nền tảng quan trọng để từng bước hình thành vùng nguyên liệu lúa gạo không chỉ đạt tiêu chuẩn chất lượng mà còn đáp ứng yêu cầu về giảm phát thải và truy xuất các-bon.
Trong cơ cấu phát thải của ngành nông nghiệp, canh tác lúa nước là nguồn phát thải khí mê-tan lớn. Nhận diện rõ vấn đề này, An Giang đã triển khai nhiều mô hình canh tác lúa theo hướng giảm phát thải, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến như “1 phải, 5 giảm”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý rơm rạ sau thu hoạch và sử dụng giống chất lượng cao.
Theo kết quả thực hiện các mô hình trình diễn trong năm 2025, nhiều điểm canh tác lúa giảm phát thải đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Tại khu vực Kiên Giang (cũ) sau hợp nhất, các mô hình thí điểm ghi nhận mức giảm phát thải từ 7,56 đến 8,11 tấn CO₂/ha. Không chỉ giảm phát thải, chi phí sản xuất giảm bình quân hơn 3,3 triệu đồng/ha, trong khi lợi nhuận tăng trên 6 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống.
Tại An Giang (cũ), mô hình canh tác lúa phát thải thấp cũng giúp giảm chi phí trung bình hơn 4,1 triệu đồng/ha, năng suất tăng khoảng 0,78 tấn/ha, qua đó nâng lợi nhuận thêm gần 9,35 triệu đồng/ha. Những con số này cho thấy giảm phát thải không chỉ là yêu cầu môi trường mà còn gắn chặt với lợi ích kinh tế trực tiếp của nông dân.
Bên cạnh trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi cũng được An Giang xác định là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể, chủ yếu từ khí mê-tan và nitơ oxit phát sinh trong quá trình chăn nuôi và xử lý chất thải. Thời gian qua, tỉnh đã triển khai các mô hình chăn nuôi theo hướng tuần hoàn, xử lý chất thải gắn với giảm phát thải.
Mô hình điểm như “vỗ béo bò thịt kết hợp xử lý chất thải theo hướng tuần hoàn” được triển khai tại các đơn vị chăn nuôi tập trung đã bước đầu cho thấy hiệu quả trong việc giảm phát sinh khí thải tại An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Một số mô hình điểm như “vỗ béo bò thịt kết hợp xử lý chất thải theo hướng tuần hoàn” được triển khai tại các đơn vị chăn nuôi tập trung đã bước đầu cho thấy hiệu quả trong việc giảm phát sinh khí thải, đồng thời tận dụng chất thải làm phân bón hữu cơ hoặc nguyên liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đây được xem là hướng đi phù hợp để vừa kiểm soát phát thải, vừa giảm ô nhiễm môi trường nông thôn.
Mở dư địa tăng trưởng xanh cho An Giang
Trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính, lâm nghiệp đóng vai trò kép: vừa hạn chế phát thải từ mất rừng, suy thoái rừng, vừa tăng khả năng hấp thụ các-bon thông qua nâng cao chất lượng và diện tích rừng. Hiện An Giang có hơn 96.600 ha đất lâm nghiệp, trong đó diện tích có rừng trên 87.000 ha, tỷ lệ che phủ đạt 8,8%.
Thời gian qua, tỉnh tập trung triển khai các giải pháp quản lý rừng bền vững, khoán bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát cháy rừng và ngăn chặn khai thác trái phép. Song song đó là các chương trình trồng rừng, chăm sóc và nâng cao chất lượng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, qua đó góp phần gia tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính và tạo dư địa tham gia các cơ chế chi trả, tín chỉ các-bon trong tương lai.
Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững tại An Giang góp phần gia tăng khả năng hấp thụ các-bon, tạo dư địa tham gia thị trường tín chỉ các-bon trong tương lai. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giai đoạn từ nay đến năm 2027 là thời kỳ thí điểm thị trường các-bon trong nước. Đối với An Giang, đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp, từng bước làm quen với việc kiểm kê, đo đếm và báo cáo phát thải khí nhà kính.
Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang cho biết, thời gian tới tỉnh sẽ tiếp tục hoàn thiện dữ liệu, tăng cường năng lực kiểm kê khí nhà kính trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và chất thải. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành các mô hình giảm phát thải có thể quy đổi thành tín chỉ các-bon, tạo thêm nguồn lực tài chính cho phát triển nông nghiệp bền vững.
Thực tiễn triển khai tại An Giang cho thấy, giảm phát thải không còn là khái niệm xa vời mà đang được cụ thể hóa bằng các mô hình sản xuất, con số và hiệu quả kinh tế rõ ràng. Từ canh tác lúa phát thải thấp, chăn nuôi tuần hoàn đến quản lý rừng bền vững, các giải pháp giảm phát thải đang từng bước trở thành trụ cột mới của tăng trưởng nông nghiệp.





























