Chất lượng nước sạch ở nông thôn và đô thị là như nhau
Ông Trần Văn Minh, Phó Giám đốc Trung tâm Nước sạch nông thôn Gia Lai cho biết, tại các công trình nước sạch ở phía đông tỉnh (khu vực Bình Định cũ), mỗi năm tỷ lệ khách hàng và công suất sử dụng nước tăng từ 10-12%.
Phòng xét nghiệm nước của Nhà máy nước Phước Sơn (xã Tuy Phước Đông, Gia Lai). Ảnh: Vũ Đình Thung.
Theo ông Minh, với những công trình đã vận hành ổn định, số lượng khách hàng mới không tăng nhiều, song mức tiêu thụ nước của người dân liên tục tăng. Ban đầu, người dân còn sử dụng tiết kiệm, kết hợp giữa nước giếng khoan và nước sạch; nhưng khi giếng xuống cấp, máy bơm hư hỏng, trong khi chi phí dùng nước sạch không đáng kể, nên người dân dần chuyển hẳn sang dùng nước máy.
“Hiện đơn giá nước sạch chỉ 8.200 đồng/m³, một hộ 4 người dùng thoải mái mỗi tháng chỉ khoảng 100.000 đồng. Với các công trình mới, dù số hộ đấu nối còn ít nhưng sản lượng tiêu thụ cao, vì người dân đã trông chờ nguồn nước sạch từ lâu nên sử dụng khá thoải mái” - ông Minh lý giải.
Cũng theo ông Minh, chất lượng nước sạch ở nông thôn và đô thị là tương đương, đều đạt theo quy chuẩn của Bộ Y tế. Nhiều người vẫn nghĩ nước sinh hoạt nông thôn kém hơn, nhưng thực tế, các mẫu nước đều được giám sát chặt chẽ bởi Sở Y tế, Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Pasteur Nha Trang, Trung tâm Y tế địa phương cũng thường xuyên kiểm tra.
“Trong quý III/2025, Trung tâm đã lấy 153 mẫu nước sạch và 18 mẫu nước thô tại các nhà máy do đơn vị quản lý để kiểm nghiệm; 100% mẫu đạt quy chuẩn. Kết quả này được báo cáo trong bản nội kiểm chất lượng nước sạch nhóm A (QCĐP 01:2022/BĐ) gửi Trung tâm Kiểm soát bệnh tật - Sở Y tế Gia Lai”, ông Minh cho hay.
Nhọc nhằn với hàng ngàn km đường ống
Theo chia sẻ của ông Trần Văn Minh, việc vận hành các công trình nước sạch vô cùng vất vả, bởi mạng lưới đường ống trải dài hàng trăm km.
Trung tâm Nước sạch nông thôn Gia Lai mở rộng hệ thống đường ống dẫn nước. Ảnh: Vũ Đình Thung.
Đơn cử, Dự án Cấp nước sinh hoạt tây bắc Phù Cát và tây nam Phù Mỹ, dù chỉ phục vụ 1.400 hộ dân, nhưng hệ thống đường ống dài tới gần 500 km. Các công trình có tuyến ống dài từ 300-350 km khá phổ biến ở địa bàn Gia Lai.
“Dân cư vùng nông thôn có đặc thù thưa thớt, có khu vực mỗi nhà cách nhau 30-50 m. Hệ thống đường ống nước sạch hầu hết được lắp đặt qua địa hình gò, núi nên thường xuyên xảy ra sự cố. Vào mùa mưa, nhân viên vận hành phải phối hợp với chính quyền địa phương khơi thông cống rãnh, xử lý rác và bèo nơi đầu nguồn tránh làm tắc, vỡ đường ống”, ông Minh lý giải.
Ông Minh chia sẻ thêm: So với hạ tầng của các ngành thủy lợi, giao thông, điện lưới thì quản lý hạ tầng của công trình nước sạch là vất vả nhất. Ví như hạ tầng của ngành thủy lợi như hồ, đập, hệ thống kênh mương đều nằm trên mặt đất nên dễ phát hiện những hư hỏng, xuống cấp để khắc phục. Hệ thống giao thông thì ổ gà, ổ voi lồ lộ trên đường nên dễ phát hiện để khắc phục, sửa chữa; hệ thống điện cũng lộ thiên, dễ xử lý khi có sự cố. Còn hệ thống nước sạch nằm ngầm dưới đất, dễ bị tác động bởi ngoại cảnh như các hoạt động của người dân, xe cộ đi lại, hộ dân làm nhà đào móng cũng dễ ảnh hưởng đến hệ thống đường ống nước sạch.
Trung tâm Nước sạch nông thôn Gia Lai đang nâng cấp Nhà máy nước sạch Vĩnh Thạnh (xã Vĩnh Thạnh). Ảnh: Vũ Đình Thung.
"Khi đường ống bị vỡ, phải đào sâu cả mét đất để khắc phục, để bảo đảm không ảnh hưởng đến chất lượng nước. Trong khi đó, lượng nước sử dụng của người dân biến động mạnh - cao điểm từ 16h đến 19h, còn giữa buổi sáng hoặc chiều lại giảm, khiến hệ thống phải chịu áp lực lớn vào giờ cao điểm” - ông Minh chia sẻ.
Hiện, Nhà máy nước sạch Phù Cát là công trình có đường ống dài nhất trong số các công trình do Trung tâm quản lý. “Lúc mới đầu tư, tuyến ống chỉ khoảng 220 km; nhưng sau khi khu dân cư phát triển, đấu nối mở rộng, nay đã tăng lên 300 km” - ông Minh cho hay.















![Đi dọc bản Mông: [Bài 3] Người khai sinh Ché Lầu](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/11/04/3800-di-doc-ban-mong-bai-3-nguoi-khai-sinh-che-lau-222449_570.jpg)
