
Dương Tường "riêng - độc - lạ". Ảnh: Nguyễn Đình Toán.
Sự liên tưởng có nguồn gốc ở mấy từ: “riêng - độc - lạ”.
Tôi nghĩ, Dương Tường không chỉ ảnh hưởng tới văn học nghệ thuật nói chung bằng sáng tác và dịch thuật của mình mà còn ảnh hưởng đến một lớp họa sĩ (sinh khoảng những năm 1960-1970, có tác phẩm thời những năm 1990). Đối diện với những người đã thành danh và những tác phẩm đã định hình phong cách bút pháp, họ, những người không chịu kế thừa, không chịu đi theo, họ tìm ra con đường chưa ai đi và từng bị chê là kỳ dị, quá đà, thậm chí vô đạo, nhưng họ lại được ông Dương Tường khích lệ: “Cứ làm. Đừng lo ai hiểu. Hiểu thì tốt, không thì để đó”. Và cho đến hôm nay, có thể còn lâu nữa, họ trở thành những người được thế giới biết đến, những tác phẩm của họ được các nhà sưu tập trên thế giới tìm mua. Những nhà phê bình trong và ngoài nước đánh giá cao, như: Đặng Xuân Hòa, Trần Lương, Hà Trí Hiếu, Hồng Việt Dũng, Phạm Quang Vinh, Trương Tân… và sau này nữa, không ít, trong đó có người tôi vừa nhắc ở trên.

Đặng Xuân Hòa - họa sĩ nổi tiếng đương thời - vẽ nhiều tranh về Dương Tường. Trong tác phẩm này, Đặng Xuân Hòa vẽ Dương Tường đứng trước, ngụ ý nhà thơ, dịch giả là lớp đàn anh đi trước trong nghệ thuật, còn họa sĩ tự khiêm tốn nhận mình là lớp đàn em. Ảnh: GĐCC.
Những bước đầu tiên của những người trẻ ấy, họ không chỉ được ông khích lệ bằng tinh thần mà giúp cả công sức. Nhà ông, đầu ngõ phố Phan Huy Chú, là nơi bày tranh của họa sĩ trẻ. Không gian không lớn, nhưng chu đáo trong việc trưng bày. Ông giúp họ viết artist statement, giải thích triết lý sáng tạo với báo chí nước ngoài, và dịch những gì tưởng như không thể dịch - như không khí, như linh cảm.
Không bảng biển hoành tráng, không quảng cáo rầm rộ. Chỉ là những bức tranh treo trên tường, ánh sáng vừa đủ, một cái bàn nhỏ và một ấm trà luôn sẵn. Khách đến xem tranh, có thể là họa sĩ, nhà báo, đại sứ, nhà sưu tập, hay chỉ là người yêu nghệ thuật, đều được chào đón như bạn hữu. Ở đó chất chứa một tinh thần cởi mở và độc lập hiếm thấy. Những cuộc trưng bày đầu tiên với tinh thần: không treo cho đẹp mà cho dũng cảm.

Tranh ư? Không treo cho đẹp mà cho dũng cảm. Ảnh: Nguyễn Hồng.
Phương Mai, cô con gái của Dương Tường, khi ấy hơn 20 tuổi, là người sử dụng tốt ngoại ngữ, cô không là người sáng tác nhưng hiểu văn bản tác phẩm, cả văn thơ và hội họa. Giai đoạn “mở cửa” của đất nước, Việt Nam có nhiều khách từ phương Tây đến, Phương Mai cũng giống cha mình đã phiên dịch và giúp những người khách ấy tìm hiểu văn hoá Việt. Từ những cuộc tiếp xúc ấy, Phương Mai đã quyết định mở phòng tranh.
Mai Gallery dường như là một trong những phòng tranh tư nhân đầu tiên tại Hà Nội, và cũng là một không gian nghệ thuật hiếm hoi mang đậm dấu ấn trí thức - khai phóng - độc lập. Các hoạ sĩ đem tranh đến, phần vì khả năng quảng giao và am hiểu hội hoạ của nữ chủ nhân, phần khác tin vào sự hiện diện thầm lặng/ phía sau của một tên tuổi: dịch giả, nhà thơ Dương Tường… Tất cả tranh trưng bày ở đó đều khác biệt với mỹ thuật chính thống, và vì thế, Mai Gallery, dù chỉ là không gian nhỏ trong ngõ, đã trở thành nơi đầu tiên đón nhận một lớp nghệ sĩ mới đang muốn phá vỡ mọi giới hạn…
Một gallery nhưng thực chất là một “salon nghệ thuật” theo đúng nghĩa Hà Nội
Một nơi bán tranh - nhưng thực chất là nơi nuôi dưỡng tư duy.
Một căn nhà riêng - nhưng trở thành trạm dừng đầu tiên của nghệ thuật Việt Nam hiện đại khi bước ra thế giới
Mai Gallery hồi ấy không chỉ với mục đích thương mại. Nó giống một salon nghệ thuật đúng nghĩa, như Paris từng có đầu thế kỷ 20 - nơi nghệ sĩ đến gặp nhau, trao đổi, nói chuyện, bàn cãi, tranh luận, lặng im nhìn tranh hoặc bật cười vì một nét phá cách.
Ngoài dịch sách, sáng tác thơ ca, Dương Tường còn là một nhà phê bình nghệ thuật thị giác sắc sảo. Ông từng viết các bài nghiên cứu, cảm nhận rất có chiều sâu về hội họa, kiến trúc, âm nhạc, và đặc biệt là những họa sĩ thuộc các trường phái hiện đại, trừu tượng. Những bài viết đó có tác động sâu sắc đến các hoạ sĩ trẻ thời đó.
Đến với Dương Tường và Mai Galleyri, các nhà báo nước ngoài, đặc biệt từ Pháp và Mỹ, các nhà sưu tập quốc tế, nhà ngoại giao họ có lợi ích kép, ngoài công việc (báo chí, dịch thuật, văn hóa) họ đồng thời tìm hiểu thị trường, xu hướng, và giá trị của hội hoạ Việt Nam. Dương Tường, như một người phiên dịch giữa nghệ thuật và đời sống. Ở đó, tranh được nói chuyện bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, nhưng tinh thần của chúng là Hà Nội - không ồn ào, không dàn dựng.

Con gái dịch giả Dương Tường - chị Trần Phương Mai - nữ chủ nhân MAI Gallery. Galleyri của Mai bây giờ ở 113 Hàng Bông, một không gian lớn hơn và đa diện hơn. Ảnh: GĐCC.
Dương Tường là một trí thức đặc biệt của văn hóa Việt Nam hiện đại. Ông không học đại học chính quy, không qua trường lớp đào tạo về văn chương, nhưng lại trở thành một học giả uyên bác, thành thạo nhiều ngoại ngữ, để lại dấu ấn sâu sắc trong cả thơ ca, phê bình nghệ thuật, và dịch thuật. Ông là kiểu “tự học lớn”, với một tinh thần lao động nghiêm cẩn, ý thức độc lập và tự do rất cao. Ông sống khép kín nhưng sáng tạo bền bỉ. Dường như càng ít giao du, càng sống thầm lặng thì ông càng nổi bật giữa đám đông vì những gì ông làm được. Ông luôn đi con đường riêng, không theo xu hướng, không nhập đám.
Ông bắt đầu dịch thuật từ năm 1957 với cuốn đầu tiên: “Vụ án” của Franz Kafka. Từ đó, ông dịch hơn 50 đầu sách lớn từ nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Đức, Ý… trong đó nhiều bản dịch được coi là “kinh điển”.

"Cuốn theo chiều gió" là một bản dịch được coi là “kinh điển”. Ảnh: Sách cũ VH.
Bản dịch của ông trung thành với tinh thần nguyên tác mà vẫn giàu chất văn Việt: “Anna Karenina” - Lev Tolstoy; “Những linh hồn chết” - Nikolai Gogol;’ “Nghệ nhân và Margarita” - Mikhail Bulgakov; “Một mùa địa ngục” - Arthur Rimbaud; “Mật mã Da Vinci” - Dan Brown; “Khát” - Amélie Nothomb’ “Lolita” - Vladimir Nabokov’ “Hamlet”, “Vua Lear” - William Shakespeare; Và nhiều tác phẩm của Borges, Beckett, Kundera… Đặc biệt là cuốn “Truyện Kiều”, ông dịch ngược từ tiếng Việt sang tiếng Anh…

'Kiều in Dương Tường's version' - bản dịch ngược từ Việt sang Anh. Ảnh: GĐCC.
Dương Tường thường dịch từ bản gốc, đôi khi so sánh từ 2-3 bản ngôn ngữ khác nhau để đảm bảo “tâm hồn của ngôn ngữ” vẫn còn nguyên vẹn trong bản dịch tiếng Việt. Ông xem dịch thuật là một hình thức sáng tạo song hành với tác giả gốc.
Và ông còn làm thơ. Thơ của ông không nhiều nhưng chọn lọc, khổ công và rất giọng điệu rất riêng, tĩnh lặng mà sâu sắc. Ông công bố chính thức ba tập thơ: Bản đồ vô hình; Theo chiều gió; Một tập 38 bài và một bài không có chữ nào. Thơ ông thiên về ý niệm, mang hơi hướng siêu thực, tối giản, đôi khi như những nén thơ - không tả, không kể, không rút tỉa cảm xúc rõ ràng, mà khơi gợi tầng sâu tiềm thức. Thơ Dương Tường không dành cho số đông. Nhưng với những người tìm kiếm một ngôn ngữ ngầm ẩn, đơn giản mà không dễ, trừu tượng mà sâu xa, thì ông là một giọng thơ hiếm quý.
Không ưa ồn ào của đám đông, nhưng với bạn bè ông lại đằm thắm, chân thành. Với Phạm Toàn, ông cực kỳ thân thiết. Cả hai cùng là dịch giả xuất sắc, cùng theo đuổi những lý tưởng giáo dục và văn hóa tự do, không bị hệ thống hóa. Phạm Toàn dịch triết học, giáo dục, còn Dương Tường dịch văn học, thơ ca. Hai ông thường đọc cho nhau nghe bản dịch của mình để “kiểm nghiệm thanh âm tiếng Việt”. Sau này, khi Phạm Toàn lập nhóm Cánh Buồm - cách mạng lại giáo dục phổ thông theo tinh thần khai phóng - Dương Tường không tham gia trực tiếp, nhưng luôn dõi theo và ủng hộ về tư tưởng.
Với nhà thơ Lê Đạt, Dương Tường có mối quan hệ đặc biệt sâu đậm. Ông nhiều lần nói: “Tôi học được rất nhiều từ cách Lê Đạt làm thơ, nghĩ về ngôn ngữ như một chất liệu sống.”. Họ thường trò chuyện về cấu trúc thơ hiện đại, về việc vượt qua lối làm thơ “miêu tả - tâm sự” để chạm đến ý niệm và ngữ nghĩa tự do. Lê Đạt gọi Dương Tường là “người làm thơ một cách triết học, nhưng rất mực thi sĩ.” Họ từng ngồi hàng giờ để bàn chỉ một câu thơ, không vì thi cử hay in ấn, mà vì ngôn ngữ đối với họ là một đạo hạnh.
Nhà Dương Tường cũng là nơi nhà văn Bùi Ngọc Tấn trú ngụ mỗi lần từ Hải Phòng lên Hà Nội. Họ chia sẻ mọi vui buồn của đời sống…
Với Bùi Xuân Phái, Dương Tường là một trong những người bạn tri kỷ nhất, cùng chia sẻ niềm đam mê nghệ thuật, Hà Nội, và tinh thần sáng tạo độc lập. Ông từng nói: “Phái là họa sĩ duy nhất khiến tôi nghĩ rằng: mỗi nét vẽ của ông là một câu thơ thị giác.” Dương Tường viết nhiều tiểu luận sắc sảo về Bùi Xuân Phái, trong đó có những nhận định trở thành điểm tựa lý luận cho giới phê bình mỹ thuật Việt Nam sau này. Ông cũng từng làm thơ tặng Bùi Xuân Phái, và chính họa sĩ cũng vẽ chân dung Dương Tường trong nhiều dịp. Sau khi Bùi Xuân Phái mất, Dương Tường là một trong những người lên tiếng mạnh mẽ nhất để giữ lại tính nguyên bản và tự do trong di sản Phái - phản đối mọi xu hướng thương mại hóa tên tuổi họa sĩ

Dương Tường qua nét vẽ của người bạn tri kỷ - họa sĩ Bùi Xuân Phái. Ảnh: GĐCC.
Ông sinh 4/8/1932 tại Nam Định (mất 24/ 2/ 2023). Tên đầy đủ là Trần Dương Tường. Ông học trung học tại Hà Nội tới khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra. Ông bỏ trường, đi làm liên lạc cho Việt Minh tại Vĩnh Yên. Sau đó về đi học lại tại trường Phan Chu Trinh. Được vài tháng ông quay lại theo kháng chiến, làm tuyên truyền và gia nhập bộ đội năm 1949. Năm 1955, Dương Tường giải ngũ về Hà Nội sinh sống. Từ năm 1955 đến giữa thập niên 1960, Dương Tường là phóng viên Tổ Văn xã (văn hóa - xã hội) của Thông tấn xã Việt Nam. Từ năm 1967, ông làm biên dịch tại Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Ông về hưu năm 1979.
Dương Tường rất gầy, nhỏ, nhưng những gì ông để lại thì đồ sộ và là những thứ không thể bị lãng quên. Ông từng nói với những người yêu văn chương và nghệ thuật: “Tôi dịch là để sống. Và tôi sống để được dịch tiếp”.