
Hoàng Tích Chu (1897 - 1933).
Nhà báo Hoàng Tích Chu (1897-1933)
Với các bút danh Kế Thương, Hoàng Hồ và Văn Tôi, Hoàng Tích Chu được đánh giá là nhà báo, người có đóng góp lớn trong việc cách tân báo chí việt Nam đầu thế kỷ XX. Năm 1927, ông đã thực hiện cách tân tờ Hà Thành ngọ báo toàn diện về cả hình thức lẫn nội dung. Phần trình bày do Đỗ Văn thực hiện gây hấp dẫn, ấn tượng mạnh. Về nội dung, Hoàng Tích Chu thể hiện lối văn cô đọng, rút gọn tối đa câu chữ, rút ngắn toàn bộ những thể loại như tiểu phẩm, xã thuyết, thời luận.
Khi làm tờ Đông Tây, Hoàng Tích Chu đã quy tụ nhiều tay viết có tư tưởng canh tân nổi danh làng báo: Phan Khôi, Phùng Bảo Thạch, Vi Huyền Đắc, Trịnh Đình Rư, Thiết Can, Hoàng Ngọc Phách…
Cuối hạ năm 1920, không muốn bỏ phí thời gian nghỉ học, tôi đã dịch tập truyện “Atala” của nhà văn Pháp Chateaubriand. Một buổi sáng, tôi đang ngồi làm việc ấy, thì Nguyễn Khắc Hanh, dịch giả “Nữ quân tử” đến chơi. Gặp anh, tôi nảy ý định nhờ anh tìm cách in cuốn sách dịch trên đây của tôi. Anh cho hay “Thực nghiệp dân báo” đã ra số đầu. Tạm thời ba kỳ một tuần, rồi sẽ ra hằng ngày. Anh kể cho tôi hay tên những người trong tòa soạn. Họ là Tây học, Nho học, nhưng đều không phải là cây bút của Thực nghiệp. Tôi thấy có điều không ổn, hỏi:
- Những ông này thì làm thế nào được Thực nghiệp?
Anh không ngạc nhiên, đáp:
- Sao không làm được? Có người như Quang chủ bút, đã từng làm báo Trung Bắc tân văn rồi đấy. Toàn những cây bút quen thuộc cả mà.
- Nhưng có ai biết gì về thực nghiệp mà viết Thực nghiệp, từ người sáng lập là Bùi Huy Tín, đã ít nhiều đi buôn đi thầu, nhưng viết văn thì đâu có phải là nghề của ông ta?
Anh ngớ người ra trước câu hỏi ấy của tôi.
- Ừ nhỉ… nhưng, báo có cần viết những bài dạy về thực nghiệp đâu. Họ chỉ hô hào cổ động thôi. Cái chính là báo phải có những bài về thời cuộc và các mục như Trung Bắc, để rồi tôi đưa số đầu tiên anh đọc sẽ hiểu.
- Thế thì cần gì phải đề Thực nghiệp Dân báo? Sao không đặt tên cho nó là Dân Báo có đúng nghĩa và hay bao nhiêu?
Câu nói làm anh hơi lúng túng ậm ừ không trả lời tôi được dứt khoát. Và tôi cũng mất luôn cái hứng định nhờ anh in “Atala”.
Hai chữ Dân Báo tôi chợt nghĩ ra trong giây phút, nó không thể nào tiêu tan ngay theo câu chuyện, mà đã bám chặt lấy tâm trí tôi suốt 7 năm liền. Nó đã trở thành niềm mơ ước lớn của tôi. Tôi mong chờ nó như một chàng trai mong gặp người tình. Mãi đến mùa hạ năm 1927, mộng Dân Báo của tôi mới thành sự thật. Hai anh Tạ Đình Bính và Vũ Đình Chí cùng tôi đã phải vượt qua bao khó khăn mới cho tờ Dân Báo của chúng tôi ra đời. Nhưng sinh ra mới đầy cữ 7 ngày thì nó đã bị thằng thần chết thực dân cướp đi mất. Ô hô! Đứa con quý hóa của chúng tôi vừa cất tiếng chào đời và còn bao hứa hẹn đã bị chết yểu. Bộ ba chúng tôi mới hợp đã tan. Tử biệt sinh ly, kẻ phải lên rừng ẩn náu, người vào Nam lánh nạn. Tôi sẽ trở lại tấn bi kịch Dân Báo của chúng tôi ở chương sau.
Đầu mùa thu năm 1921, lại có thêm Khai Hóa nhật báo, rồi Hữu thanh Tạp chí lần lượt ra đời, giành giật chút quyền ăn nói mà hầu như Tạp chí Nam Phong và Trung Bắc tân văn đã chiếm độc quyền trước đó ở đất Bắc. Lúc đó, ở trong tôi cũng lóe chút niềm vui, vì dẫu sao, làng báo Việt Nam thêm đông đúc và không mãi mãi bị Tây ngồi chiếu trên làm thủ chỉ. Nhưng phải đợi đến năm 1925, cụ Phan Bội Châu trở về nước, báo chí mới dần dần trở thành món ăn tinh thần của cả những xóm nghèo trên mảnh đất “Nghìn năm văn vật” này.

Một trang báo của Thực nghiệp Dân báo.
Cạnh nhà tôi, trong một xóm nghèo, có một anh thợ in của tờ Khai Hóa, tên anh là Khang. Ngày ngày, sau giờ làm việc, anh Khang vẫn mang về một số báo Khai Hóa. Và tôi, như đã thành cái lệ, thấy anh về, là tôi chạy sang mượn tờ báo về đọc. Mỗi lần đem trả báo, tôi thường nán lại nhà anh mươi lăm phút chuyện trò. Khang khoe báo bán chạy và in đẹp, lại viết hay hơn báo Trung Bắc và Thực Nghiệp. Tôi khen Hoàng Tích Chu là người trẻ tuổi, thông minh, tài hoa, rất xứng đáng chủ bút. Tòa soạn lại có cả những thi sĩ, văn sĩ nổi tiếng… Anh cũng khen Bạch Thái Bưởi, người sáng lập tờ báo, là người giàu có, tiếng tăm từ Bắc vào Nam, hơn hẳn cả Nguyễn Hữu Thu và Bùi Huy Tín của tờ Thực Nghiệp.
Khang cho ông Bưởi là người có con mắt tinh đời, biết cách phóng tài hoa, thu nhân tâm, trọng đãi nhân tài lắm mới mời được Hoàng Tích Chu về làm chủ bút. Để chứng minh, anh thuật lại tôi nghe trong buổi gặp mặt đầu tiên giữa ông Bưởi, một nhà kinh doanh quen cưa đứt đục suốt, trong chuyện tiền nong với anh chủ bút họ Hoàng: “Ông cho biết hàng tháng ông cần bao nhiêu cho đủ tiêu”. “Đủ tiêu thì vô cùng, hàng trăm cũng vẫn thiếu, có khi hàng chục lại vẫn thừa”. Ông Bạch Thái Bưởi nói tiếp: “Vậy hàng tháng xin gửi ông 200 đồng. Nếu thấy còn thiếu xin ông cho biết ngay, ông giúp cho việc này tôi quý lắm…”.
200 đồng năm 1921, to quá! Hồi ấy những gia đình có 6-7 miệng ăn trong cái xóm nghèo tôi đã ở mỗi tháng cũng chỉ mong được mươi mười lăm đồng, cũng đã đủ sống.
Tôi cũng không nhớ độc giả lúc ấy khen cụ thể ra sao. Nhưng riêng tôi, khi đọc Khai Hóa, cũng đã thấy được cái hơi sức trẻ trung, mới mẻ của nó đang vượt dần lên hơn so với Trung Bắc và Thực Nghiệp. Nhưng ở đời không ai học được chữ ngờ. Một sự việc xảy ra quá đột ngột làm dư luận bàng hoàng, y như chuyện xảy ra trên sân khấu, khi khán giả đang chăm chú theo dõi diễn biến các sự kiện, thì đột nhiên sổ ra “một vố kịch biến” (coup de théâtre) làm mọi người ngơ ngác.
Khai Hóa vẫn ra bình thường như mọi ngày, duy có một bài của Hoàng Tích Chu thì thật đặc biệt. Tính đặc biệt ấy chưa từng thấy ở làng báo Việt Nam từ xưa tới giờ. Đó là một bài báo đã vạch trần mặt thật của vị sáng lập ra báo Khai Hóa, đăng ngay trên báo Khai Hóa mà Lê Văn Phúc là người thân thích của Bạch Thái Bưởi nắm quyền hành Chủ nhiệm, quyền hành quản lý và cả quyền hành nhà in. “Không phải chuyện cá nhân ghen ghét mà vì danh dự chung!”.
Đúng, không phải chuyện cá nhân, tôi xin thuật lại chuyện dưới đây, chắc bạn đọc sẽ nhận ra như vậy.
Thực dân Pháp mở tiệc và làm lễ mừng khánh thành con đường xe lửa Vinh - Đông Hà tại thị trấn Đông Hà. Những vị tai to mặt lớn ở Bắc Kỳ, những kẻ có máu mặt đều được dự lễ và tiệc khánh thành. Tất nhiên các nhà báo cũng phải có mặt. Hoàng Tích Chu, Chủ bút báo Khai Hóa lên chuyến xe lửa đầu tiên, đi mở đường vào Đông Hà, để làm nhiệm vụ của mình.
Trong bài tả đoàn Bắc Kỳ đi dự lễ khánh thành hôm ấy, ngòi bút của Kế Thương, bút danh của Chu hồi đó, đã như cái cào nhiều răng, cào tung những bộ mặt đầy tính cách đê tiện, hèn hạ, những cử chỉ khúm núm của lũ quan lại An Nam trước cái ông quan Tây cũng như những trò chơi ngông, rởm đời của những kẻ trọc phú thừa tiền thừa bạc được Bạch Thái Bưởi mời cùng đi với đoàn người này. Một trong số đó phải kể đến vị thông gia mới toanh của Bạch Thái Bưởi, vốn được mệnh danh là “con cóc vàng” to sụ ở phố Hàng Bồ. Nhiều người khen Bạch Thái Bưởi láu cá, đã biết chọn mặt gửi vàng, lại còn “lôi” được con cóc vàng ấy rời khỏi cái “hang” mà trước đó hắn chỉ biết ngồi ru rú bên trong, trên chiếc sập gụ, cạnh chiếc bàn đèn thuốc phiện mịt mù khói với mấy chàng quý tử làm bạn hút xách. Việc Bạch Thái Bưởi lọt vào được cái “động cóc” để hỏi vợ cho con trai cũng là câu chuyện đầu lưỡi cho những kẻ hiếu kỳ ở Hà Nội thời đó. Đám cưới của con cái họ cũng thật đặc biệt, cô dâu chú rể ngồi trên máy bay “bà già” rồi thả thiệp báo hỉ xuống đất theo kiểu máy bay Pháp thả truyền đơn thời chiến tranh!
Vậy là, sau cái chuyện kết tóc se tơ cho con, đùng cái, cóc vàng đã thành que hàn, rời bỏ chiếc hang động quanh năm cửa đóng then cài để bước lên chuyến xe lửa danh dự vào mãi tận Đông Hà, để rồi sau đó lại bị ngòi bút anh nhà báo họ Hoàng dồn trở về hang.
Khai Hóa in bài báo đặc biệt ấy của Chu, anh bạn thợ in người hàng xóm với tôi cũng có một cử chỉ khá đặc biệt. Trưa hôm đó, tan giờ làm việc, anh tạt qua nhà tôi ngay và đưa tờ báo đó cho tôi với một lời căn dặn:
- Lạ lắm đấy, đọc đi, tối sang tôi sẽ nói chuyện nhiều.
Tôi say sưa đọc đi đọc lại bài báo đó của Chu. Càng đọc, tôi càng cảm thấy mến và phục anh Hoàng Tích Chu đã nói được những điểm xưa nay nằm chết dí trong đầu mình. Tôi chưa quen biết anh, nhưng đã đọc những bài anh viết ở Tạp chí Nam Phong, thấy ngòi bút anh cũng bình thường vô thưởng vô phạt như bao cây bút khác. Nhưng với bài báo này thì anh đã để lại trong tôi cái ấn tượng tốt đẹp của khí phách một người làm báo.
Bài báo đã làm cho tôi phải suy nghĩ đến cái xã hội lúc bấy giờ và liên hệ tới những điều tôi đã đọc được ở những trang sách nói về tự do ngôn luận, về văn học, về người cầm bút.
Như một tín đồ thuộc kinh cầu nguyện, tôi nhớ những câu về báo chí: “Báo chí là quyền lực thứ tư trong xã hội. Tuy đứng vào hàng thứ tư nhưng nó lại có quyền kiểm soát và phê phán cả ba quyền đứng trên là lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Một nhà báo đã đề cao nghề báo bằng một câu rất hình tượng: “Tôi sẽ khước từ ngay, nếu người ta đem 3 ghế Bộ trưởng để đòi đổi lấy nghề làm báo của tôi…”. Là nhà báo, khi cùng ngồi bàn việc đại sự với các vị có trách nhiệm về sinh mệnh nhân dân, tôi thấy được tự do hơn các vị ấy. Và khi trở về với anh cùng đinh xóm tôi, tôi lại cảm thấy mình là người bạn tin cậy của anh ta… Tựu trung đều toát lên niềm tự hào về tinh thần tự do của những người đã thoát khỏi “nhà tù của thế lực, của địa vị và tiền tài”.
Đọc xong bài báo của Chu và sực nhớ đến những câu “giáo huấn” của đời viết báo, cái ao ước bước vào nghề báo, bấy lâu âm ỉ, nay như được chắp thêm cánh.
Khi tôi đem tờ báo sang trả cho Khang, theo lời hẹn của anh và để đàm đạo thêm với anh về bài báo đó, Khang nhận xét:
- Những việc ông Chu nói đều đúng cả. Nhưng ông Chu làm mạnh quá, nhất là đối với ông Bưởi, người rất quý ông Chu. Giá như bài báo ấy đăng ở tờ báo khác cũng là quá lắm rồi. Đằng này lại đăng ngay trên tờ Khai Hóa, một tờ báo của chính ông Bưởi sáng lập.
Sớm hôm sau, tôi đi tìm Nguyễn Khắc Hanh để xem thái độ của anh về bài báo, đồng thời tôi muốn nhờ anh giới thiệu với Chu. Cũng như tôi, Hanh khen Chu viết sắc nhưng ác quá. Anh cũng nói như Khang, lẽ ra bài ấy không nên đăng ở báo Khai Hóa vì khí tàn nhẫn.
Còn việc tôi muốn gặp Chu thì anh nói:
- Chu không còn ở báo nữa, và cũng chẳng có chỗ ở nhất định. Đợi hỏi Trần Tuấn Khải xem sao.
Tôi không đồng tình với những lời chê trách Chu, nhưng dù sao cũng phải tôn trọng người ta nên tôi không tranh cãi gì.
Tôi còn nhớ đại ý mấy dòng nhật ký tôi ghi hồi ấy về việc này: “Hoàng Tích Chu trong bài về Bạch Thái Bưởi đăng trên báo Khai Hóa (tháng 7 năm 1921) mà Bạch là chủ nhân chi lương cho Hoàng là Chủ bút, đã cho tôi thấy cái nghề tự do này với tính độc lập của nó như thế nào. Chu chưa chắc đã thấy được điều này, nhưng tôi cứ cảm ơn anh trong cuốn sổ nhỏ…”.
(Còn nữa)