Trong cuộc đời làm báo đầy sóng gió và khổ cực, Nhà báo Phùng Bảo Thạch đã nhiều lần bị Sở Kiểm duyệt, Sở Mật thám theo dõi, đe dọa. Năm 1939 khi qua Vinh - Nghệ An, ông bị bắt và bị giam 4 tháng. Năm 1940-1941, ông bị đi tù 2 năm, giam ở Vụ Bản - Ninh Bình. Cũng về chuyện những bài báo đả kích bọn quan lại thống trị, ông bị Đốc lý Hải Phòng trục xuất khỏi thành phố này khi viết Hải Phòng Tuần Báo.
Hai cái tha ma
Tôi bấy giờ đang là kẻ viết mướn cho tờ nhật báo Khai Hóa của ông tú Lê Sỹ Tố, chứ không còn là của ông Bạch Thái Bưởi, sau khi thôi làm kẻ viết thuê cho tờ Thực nghiệp Dân báo.

Ông Bạch Thái Bưởi - người lập ra tờ Khai Hóa.
Tờ báo này sau khi tôi không giúp việc được ít tháng hay non một năm gì đó, thì thiên về phố Hàng Gai ở ngay vào lớp nhà đối diện với báo Khai Hóa của tôi đang làm trợ bút.
Báo Thực nghiệp đã bắt được phong trào thời ấy nên chạy vào bậc nhất. Báo Khai Hóa mà tôi đang viết không bắt được gì cả nên có lẽ chạy vào hạng bét. Ông chủ nhiệm kiêm chủ bút của tôi là nhà nho suốt ngày không nói gì đã đành rồi, và còn không lúc nào tỏ cho tôi thấy một thứ tình gì trong bảy thứ tình của con người. Tôi vốn cũng là người ít nói và lạnh lẽo đến nỗi có ông bạn thân đùa bảo: “Anh là một cái tha ma, cái gì vào trong lòng anh cũng được chôn sâu. Ai có tâm sự riêng gì chỉ nên gửi vào anh thì nó mới được nằm yên không nhảy được sang một người thứ ba nào khác”. Thế mà lắm lúc tôi còn thấy khó chịu về sự yên lặng của ông nhà nho ấy. Nhất là chúng tôi lại ngồi chung một bàn, đối diện nhau. Thật tình thì lúc đầu gặp ông, tôi thấy thú về tính ấy lắm và tôi cho là một đức!
Đức của ông và đức của tôi càng ngày càng lên tới cái độ cao, thành thử ở tòa soạn có những hai cái tha ma. Chẳng còn nói chuyện tâm sự riêng, tâm sự của ai tới đây cũng được chôn mà việc thiên hạ vào chốn này cũng được chết nốt.
Chúng tôi là hai khối lớn có chất phản nghịch với tính cách một tờ báo hằng ngày là tấp nập và ồn ào. Báo Khai Hóa được bao nhiêu hơi sức mà không bị giở sống giở chết, nhất là cả bộ biên tập, trừ hai chúng tôi ra, chỉ còn mỗi một người chạy ngoài để lấy tin: Ngô Văn (chớ nhầm với Ngô Vân quản lý báo Đông Pháp).

Một trang báo của Khai Hóa nhật báo.
Bạn đọc nghe chuyện đã buồn ngủ chưa thì tỉnh dậy mà coi một trong hai cái tha ma sắp đứng dựng lên và bốc luôn cả một người trong bộ biên tập là Ngô Văn đi đây này.
Hỡi người thiên cổ! Hãy đứng lên! Sóng gió dồn dập không để cho ai yên nữa rồi.
Tôi thấy không thể còn ngồi lâu được hơn ở cái ghế tòa báo này nữa đâu.
Ở đây lạnh lẽo lắm. Ở đây lặng lẽ lắm. Ở đây xa lánh cuộc sống đương thời lắm. Ở đây cách biệt với mọi sự tưng bừng của xã hội. Ở đây không phải là hoạt động. Ở đây không phải là sống mạnh mẽ. Ở đây không phải là tờ báo.
Mà tôi là người viết báo, là kẻ làm báo. Làm một tờ báo nào không giống tờ báo này và viết cái gì khác với những điều tôi đã viết.
Ở ngoài có bao nhiêu việc đáng nói, ở trong lòng tôi có bao nhiêu điều đáng viết ra, mà không nói, không viết nó lên giấy để cho nó như đã thành một thứ men rượu trong người thế này thì chịu sao được nổi nữa!
Tôi bốc Ngô Văn đi cùng với tôi, hai người nhất định từ chức ở báo Khai Hóa để tính việc lập một cơ quan ngôn luận hoàn toàn là tư hữu mình.
Ngô Văn không viết được nhưng là người đã từng giúp cho hai ba tờ báo Pháp và Nam về tin tức rất đắc lực. Anh lại là người hơn tuổi tôi, đã “được” thất bại một hai lần trong việc đời. Anh đã cùng với tôi giúp việc cho Thực nghiệp Dân báo và có tính ngang tàng không chịu khuất phục kém cạnh trong việc làm ăn. Đã có lần giữa một nhà báo đông đủ mọi người làm việc, anh bô bô lên: “Ông bảo tôi đút chân vào xe điện để cho báo có tin” để trả lời ông chủ nhiệm kia phàn nàn rằng ít tin tức.
Tôi bàn với anh để anh đứng tên xin phép xuất bản Dân báo và anh sẽ làm chủ nhiệm vì anh có đủ điều kiện về việc đó.
Cùng thời được phép xuất bản với Dân báo trong Trung Kỳ có tờ Tiếng Dân và ở Nam Kỳ có một hai báo nữa mà tôi không nhớ tên. Ký hiệp định phép xuất bản báo là quan Thủ hiến Đông Dương Varenne. Quan Toàn quyền Varenne đã ân xá cụ Sào Nam, nới rộng phép xuất bản báo chí và mở những lối đi nho nhỏ cho dân Việt Nam đến nhiều quyền tự do khác.
Kể cũng là một phong hội mới cho xứ này. Nhưng ngày lưu tại đây của ngài chẳng bõ với cái công ngài đi đi về về để rồi không bao giờ sang nữa.
Nói qua thế để ghi thêm cái thời của Dân báo.
Công kích việc và người
Lối này không gọi là bút chiến được vì không có bút nào của đối phương bắn tên đạn hay bom sang phía mình cả, và không chuyên hẳn một vấn đề nào nhất định như văn chương, nghệ thuật, chánh trị hay xã hội. Đây chỉ là nhân một chuyện gì của thời cục, mình đưa một nhân vật nào hay việc gì ra đả công nhiên, hoặc nói úp mở bóng gió để độc giả có thể hiểu ngầm. Nhưng phải có chứng làm tin. Công hiệu của nó nhiều khi không hiệu ngay khi mực viết vừa khô trên giấy, nhưng có mãi về sau khi nét chữ in đã bị thời gian xóa mờ, giấy đã biến trạng nhiều lần rồi. Nhiều nhà văn và nhà báo bên Pháp thời xưa và bây giờ, như V.Hugo, d’Aubigué, Barlier và L. Daudet, thường dùng ngòi bút đả này có công hiệu.
Dân báo ưa lối viết này và được độc giả chuộng vô cùng. Báo nhờ thế mà chạy chứ không phải chúng tôi đã gây được dư luận gì vững vàng hay tạo nên phong trào chi hồi ấy cả. Chẳng qua chỉ dựa vào tên báo, viết gì cũng đứng lên cái địa hạt Dân mà đả những người và việc mà chúng tôi xét không thuận với dân mà thôi.
Những tình duyên lỡ dở
Mỗi người là một cái rừng, mỗi người viết là một cái rừng tối đen. Không để cho người ta trông rõ cái gì nữa. Tưởng rằng chôn xong báo thì tôi được yên lắm, không thương tiếc vẩn vơ gì. Sự thực không thế. Từ hôm tôi rời bỏ nơi sum họp kia là bắt đầu những ngày chông chênh, ngùi ngùi và nhớ tiếc. Bây giờ tôi có cả một tâm sự hoang mang của người quá phụ, chồng vừa chết đã phải ra đi và lòng thì của ý định làm lại cuộc đời mình ra sao.
Nhưng dẫu sao, cuộc sống thể chất thấy được yên đôi chút. Tôi muốn lui xa trong ít lâu hẳn những ngày gió bụi ở Hà Nội. Tôi muốn tìm nơi nào để ghép cuộc sống tâm tình của mình với thiên nhiên cho nó được chóng lành hơn. Cuộc đời tôi bị qua lớp gió bụi này sang trận gió bụi khác ở các nơi thành thị lớn trong Nam rồi lại ngoài Bắc. Đã lâu tôi vẫn rắp tâm tránh những nơi phồn hoa ấy, những ngày mạt của Dân báo hẳn đến chấm được dấu hết cho cái giây dài ngày tháng đục kia.
Một buổi gặp gỡ tình cờ với một ông bạn cũ đang làm ăn ở rừng giúp cho tôi bỏ ngay được Hà Nội trong mấy tiếng đồng hồ.
Tôi đi tìm cây, cỏ, đá và nước, không phải cố ý bắt chước những người xưa đi ở ẩn mà chỉ định cho trong người mình được lắng xuống những thứ gì vẩn đục. Bao nhiêu năm trước đây xát cạnh với thế tình, nào danh lợi, nào yêu ghét, nào oán thù hết từng lớp này tới lớp khác đè chất lên tôi, bây giờ tôi muốn đem trút dần nó đi mong có cứu lại được cái gì là lành, là thuần túy, đẹp đẽ của con người chăng?
Những cuộc lọc sống như lọc nước này từ nay về sau tôi vẫn thường có trong đời viết báo của tôi. Cho nên mỗi lần báo tôi viết được tắt nghỉ thì tôi lại có hàng năm đi ở ẩn, và chỉ có những ngày như thế tôi mới được thật sống. Tôi được sống mạnh mẽ cuộc đời của tôi. Và nhờ giời những tờ báo tôi chủ trương lại thường là yểu mệnh để cho đời viết của tôi không phải chóng già. Giá tờ báo nào chưa được chết non thì nửa đường tôi cũng rẽ duyên với nó, chẳng cùng với báo nào sống lấy luôn vài năm bao giờ. Tôi nói thật ra đây như thế, không giấu diếm gì cái số “đa sát” của tôi với ai cả, nhất là với những đấng tri kỷ không quen biết bao giờ, muốn cho báo sống lâu mà lại có lòng yêu, tôi đem gửi gắm nó cho tôi sau này.
Có yêu nhau thì đừng kí thác gì cho nhau là hơn, không phải vì tôi thiếu sự thành tín với người hay với nghề đâu. Không hay người bạc hay nghề bạc, bên nào phụ thuộc bên nào, mà trong hai mươi năm giời nay, cuộc đời viết báo của tôi chỉ là những chuyện lỡ dở.
Đây để tôi kể nốt việc “đa sát” mà nghe: Lúc ấy, thời Dân báo không còn làm bận gì đến ngòi bút nhật kí của ai muốn chép cuốn Lịch sử báo chí Việt Nam nữa và thời ấy đã mờ đi ở trong đầu tôi rồi. Tôi đã vào rừng ở được non một năm thì bắt đầu giở chứng bệnh khác.
Mây núi, giăng ngàn không cho tôi thấy đẹp nữa.
Không khí ở rừng không còn lành cho tôi mà là lớp chướng khí làm hại người.
Gió cây về tiết hạ làm cho tôi thấy lạnh rét, phải đắp mấy chăn bông. Tôi ở xa đất đồng bằng mới chưa được một năm mà đã bị chứng sốt rét.
Tôi thuở ấy không còn là người của đất văn vật đã đành rồi, mà không được là người của rừng núi.
Thân hình biến thành ma sau mấy tháng sốt rét liên hồi.
Tôi chịu phận vô duyên với đời ngựa ngựa xe xe nơi đô hội mà cũng không được yên gì với cuộc sống gửi nơi điếm cỏ, cầu sương.
Tiếng nước của suối nguồn không còn là thanh âm rõ được nỗi niềm gì của đá, núi, cây rừng. Nó không còn gợi được cho tôi cái gì là trong sáng trong người, cái gì là cao rộng của giời và đất. Nó không nói được nhiều tiếng lạ như mực trên giấy, như máy in chạy.
Những thứ này đòi gọi tôi gấp trở lại với Hà Nội.
Tôi đã về và đang ngồi ở bộ biên tập mới lập và đang viết bài phi lộ cho báo Nông Công Thương ra số đầu. Tôi viết bài với cả những cơn sốt rét của tôi để rồi lại rời bỏ báo này trong lúc nó đang phát đạt để sang Ngọ Báo với Hoàng Tích Chu.

Nhà báo Hoàng Tích Chu - người có đóng góp lớn trong việc cách tân báo chí Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Bắt đầu một cuộc sum họp khác vui hơn, không hỗn độn như cuộc họp xưa. Vẫn là những cố thân cả: Tiểu Lang, Vũ Đình, Hoàng Hồ và cả Đỗ Văn. Đỗ với việc ấn loát, chúng tôi với việc biên tập, tưởng sẽ được coi thấy nhau tóc trắng dần cho bạc phơ đầu ở nơi này.
Người có báo lại không nghĩ thế hay là Giời không muốn thế, một ngày kia chúng tôi lại cả lũ bấy nhiêu người ôm bút đứng lên.
Chuyến này tôi không nghĩ lên rừng vì chúng tôi làm ngay được Đông Tây tuần báo, rồi Đông Tây nhật báo, rồi Thời Báo.

Các trang báo của Đông tây tuần báo.
Chúng nó lần lượt chết, chết nhanh chóng theo nhau như nhà vô phúc nào có trùng. Việc đại bất hạnh lúc này, là bạn của chúng tôi Hoàng Tích Chu cũng đem góp mệnh yểu vào với mệnh non của báo. Viết tới đây tôi thấy thời gian dẫu có cái sức mạnh phá hoại người và việc đời, cũng chưa làm vơi được hẳn lòng thương tiếc của tôi còn lại với người bạn văn chương thừa thông minh, tài hoa và chung hậu của chúng tôi là Hoàng Hồ.
Tôi sẽ có dịp bầy những thứ tình thương tiếc anh, tài văn chương cùng thân thế anh lên giấy, gọi là ghi một thời mới của báo chí giới Việt Nam.
Mấy dòng này chẳng tỏ được anh với bạn đọc mà chỉ để không quên rằng sau khi Hoàng mất, luôn trong một hồi mười năm sau, tôi gửi theo anh cũng đến mười tờ tuần báo nữa.
(Còn nữa)