
Nhà báo Phùng Bảo Thạch.
Nhà báo lão thành Phùng Bảo Thạch, bút danh Bách Lý, Bảo Sơn và rất nhiều bút danh khác trong cuộc đời làm báo trước cách mạng. Xuất thân trong gia đình tiểu thương nghèo ở xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Khoảng năm 1907, ông theo gia đình lên sinh cơ lập nghiệp ở làng Nghĩa Đô - Hà Nội.
Thời kỳ đầu những năm 1920, ở Hà Nội lúc đó chỉ có vài tờ báo tiếng Việt. Đáng kể nhất là tờ Trung Bắc Tân văn và Khai Hóa. Cũng nhờ có những tờ báo như thế, ít nhiều tác động đến ước vọng về nghề làm báo của ông sau này. Ông tự mày mò tìm hiểu bằng cách viết những bài báo “lai cảo” khi còn là học sinh trung học Trường Bưởi (nay là THPT Quốc gia Chu Văn An) và gắn bó với nghề làm báo cho đến hết cuộc đời.
Tôi tập viết văn ở độ tuổi còn là cậu học trò Trường Bưởi, tập viết để mơ tưởng trở thành nhà báo sau này chứ không có ý gì khác. Đến khi đầy tuổi 70, tôi cũng mới thử búa làm thơ. Và dĩ nhiên cũng không đời nào mơ tưởng mình trở thành nhà thơ. Tôi cũng chưa đến nỗi “giở chứng”, hễ cứ xuất khẩu là thành thơ con cóc để bắt con cháu lưu danh hậu thế. Mà làm thơ cũng lại vì nghề báo, cả một đời vì báo.
Buổi lễ mừng thọ 70 ấy của tôi có đông đủ anh em bên Hội Nhà báo, Báo Hà Nội mới, bạn bè thân hữu xa gần tới dự. Trong không khí ấm áp thân tình đó, tôi đã tâm sự:
“Cầm bút xưa toan đổi lại thời
Lao tâm khổ trí đạp chông gai
Năm mươi năm viết chưa nên nghiệp
Trang báo lên khuôn, nghĩa nhạt rồi”.
Vâng, chưa nên nghiệp nhưng tôi cũng đã có một nghề. Năm mươi năm long đong lận đận với nghề, vào tù ra khám dưới chế độ thực dân cũng vì nghề: Ấy là nghề làm báo.
Lần đầu tiên được mang tấm thẻ thuế thân, sau tên tuổi của tôi, người ta chính thức ghi thêm hàng chữ “Journalist” (nhà báo). Chuyện ấy cách đây cũng đã nửa cõi người ta rồi. Cũng kể từ những ngày đó, tôi đã chính thức dấn thân vào cái nghề vốn mang tiếng là bạc bẽo! Biết vậy nhưng tôi lại ăn ở với nó rất trung thành tận tụy. Ngay cả những năm tháng cam go nhất của cuộc đời, tôi vẫn một lòng một dạ với nghề, tựa như tại kiếp trước đã buộc tôi phải gắn bó với nó như một người bạn đời thủy chung trọn vẹn.
Ở lứa tuổi học trò, tuy còn rất ngây thơ hồn nhiên, nhưng dường như không ai là không ý thức được ít nhiều nỗi thống khổ của người dân sống dưới quyền cai trị của ngoại bang. Ngay trong nhà trường, học sinh không được nói, được học tiếng mẹ đẻ, các thầy cô giáo cũng toàn là người Pháp. Từ trong trường ra đến ngoài đường, xã hội, đâu đâu cũng gặp cảnh dân mình bị ức hiếp, ngược đãi và khinh miệt.
Không biết từ bao giờ đã hình thành trong tôi một nỗi ấm ức rất học trò. Tôi vùi đầu vào học, học cho giỏi để khi ra trường, không ai có thể coi thường mình được. Tôi đọc báo, thấy người ta nói tới những điều mình quan tâm. Từ đó tôi rất thích xem báo. Rồi cũng từ mối thiện cảm với báo chí, tôi có luôn thiện cảm cả với những người viết báo. Ngoài giờ học chính thức, tôi vùi đầu vào đọc, đọc bất kể các loại sách báo mà mình kiếm được, mượn được, chẳng theo một phương pháp nào cả. Một lần, cô giáo dạy văn học người Pháp hỏi tôi: “Mai sau em làm nghề gì?”. Tôi đáp ngay, không hề do dự: “Thưa cô, nghề làm báo!”. Cô giáo ngây người trong giây lát lại hỏi tiếp: “Tại sao em lại chọn nghề đó?”. Tôi thưa: “Vì đó là một nghề tự do!”. Phải cũng nhờ ham đọc các báo chí từ Pháp đưa sang, các báo xuất bản ở trong nước thời đó, cũng có thể do ảnh hưởng của những ý tưởng nào đó mà tôi đã tự rút ra một kết luận: Nghề báo là một nghề tự do.
Trên đây, tôi cũng xin được mở ngoặc: Phải mất nhiều năm sau, khi đã trở thành dân làng báo, lăn lộn trong nghề báo, tôi mới thấm thía về cái sự non nớt trong nhận thức trẻ con ấy của mình. Tôi có thể tạm kể ra đây vài gương mặt cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không sao quên được. Bởi vì nó là những chướng ngại, tạo thành một thứ hàng rào thép gai ngăn bước tôi đi.
Đó là Veyrac, tay luôn luôn cầm cây bút chì xanh sẵn sàng gạch chéo lên những bài báo tôi viết mỗi khi qua kiểm duyệt cộng với những nhận xét đầy ác ý. Đó là Lanèqu cẩm mật thám bên cạnh Arnoux chánh mật thám Bắc Kỳ đưa gông cùm ra đe dọa tôi. Đó là Morché, quan tòa chuyên phạt tù các nhà báo. Rồi Bonché - Đốc lý Hải Phòng trục xuất tôi khỏi thành phố Hải Phòng trong 24 tiếng đồng hồ. Rồi Sogny - Chánh Mật thám Trung Kỳ vồ trượt tôi ở Huế, rồi Robin, Monguillot, Chatel - Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh đóng cửa những tờ báo tôi viết… Nhưng thôi, trở lại chuyện tôi đang nói đã.
Đến năm học cuối cùng của Trường Bưởi, bạn bè cùng lớp, cùng khóa vùi đầu vào ôn thi, thi để tiếp tục theo học các trường cao đẳng, có anh thi cốt có tấm bằng ra làm tham, thông, ký, phán cho Tây, còn riêng tôi, tôi cũng học, cũng ôn nhưng để theo đuổi cái nghề mà hồi ấy chưa có trường sở nào dạy cả. Tôi biết, làm báo là một công việc chẳng mấy ai có thể làm được. Ngoài kiến thức đã được học ở trường, nếu không có sự hiểu biết nhất định về xã hội, nếu không có khả năng viết lách nhất định, và đặc biệt, nếu không có một tình yêu với nghề, chắc chẳng dễ gì đã theo đuổi được nó. Muốn vậy thì không thể bàng quan với sự việc đang diễn ra ngoài xã hội, càng không thể lười đọc. Như trên tôi đã nói, tôi đã đọc, đọc thật nhiều, chẳng theo một phương pháp nào hết, đọc thấy điều gì mình tâm đắc thì ghi nó vào cuốn sổ. Và tôi đã mất khá nhiều thời gian vào công việc này.
Kỳ thi năm ấy quả thật là tôi đã gặp may. Đến ngày thi vấn đáp, tôi đi dọc hành lang ngoài phòng thi, dỏng tai nghe ngóng, cảm thấy câu nào “ngon ăn” thì xin vào. Tôi đứng thập thò ở cửa phòng thi, ngó vào thấy một cô giáo trẻ người Pháp đang cau có với một thí sinh đang đứng nghệt ra. Một anh bạn đập vai tôi thì thầm:
“La vie légitime de Joséphine đấy, chương trình có học đâu mà hỏi. Thằng này là deuxième vietime rồi, có giỏi thì vào đi”.
Cũng nhờ đọc lung tung mà tôi nhớ khá đầy đủ về cuộc đời của Joséphine - người yêu quý nhất đời của Napoléon. Và tôi đã bước vào phòng thi, lòng đầy tự tin. Sau giây lát nhìn tôi bằng ánh mắt thiếu tin tưởng, cô giáo người Pháp vẫn giữ thái độ cay cú vì một câu hỏi chưa được giải đáp. Cô hỏi tôi: “Anh hãy kể những gì mà anh biết về cuộc đời sâu kín của Joséphine”. Tất nhiên là tôi trả lời khá trôi chảy. Nhìn nét mặt cô giáo tươi dần lên, thỉnh thoảng lại gật đầu tỏ ý tán thưởng, tôi như được khích lệ và thực sự bị cuốn hút bởi câu chuyện do chính mình kể lại.

Đông Dương tạp chí, số 1 (5/1913).
Năm 1919 có hai sự kiện có thể nói là tác động không ít đến nhận thức của tôi.
Sự kiện thứ nhất đó là việc dấy lên một phong trào tẩy chay các nhà buôn Hoa kiều từ Bắc Trung Nam.
Tan giờ học, tôi đi thẳng đến phố Hàng Ngang, Hàng Đào, nơi có đoàn người tuần hành đứng túm tụm thành từng đám nghe diễn thuyết về tinh thần dân tộc, về lòng yêu nước. Đã là người Việt Nam thì phải ủng hộ người Việt Nam làm chủ các cửa hiệu buôn bán. Đứng trên bục diễn thuyết là hai người mà lúc ấy tôi tôn vinh thành hai nhà hùng biện có tinh thần yêu nước cao độ đó là Nguyễn Mạnh Bổng và Trương Cao Động. Ông Bổng thì tôi quá quen khi đọc một vài tác phẩm của ông ta đăng ở tạp chí Nam Phong.
Lúc ấy, các ông trước mắt tôi, không phải như sau này tôi đã hiểu là kẻ đóng trò lừa đảo, cầu danh trục lợi, mà là những văn sĩ, thi sĩ có tinh thần yêu nước thực sự. Ít hôm sau tôi đã viết mấy bài báo lai cảo, mô tả cái không khí dân ta tẩy chay các cửa hàng buôn bán của người Hoa tại Hà Nội và ca ngợi “hai nhà hùng biện đại tài” kia. Rất may, và cũng rất buồn là mấy bài báo trên chỉ là sự tập dượt và ghi chép ở cuốn sổ tay chứ không đưa cho báo nào.
Sự kiện trên chỉ gây được sự chú ý của dân Hà thành một thời gian ngắn. Nó chỉ đem lại kết cục là việc mở mấy hiệu cao lâu, mấy hiệu phở mà chủ là người Việt Nam. Còn các chủ cửa hàng dọc mấy dãy phố trung tâm vẫn nguyên xi mấy bộ mặt cũ. Lúc ấy, tôi đâu biết rằng cái sự kiện đầu voi đuôi chuột kia chính là để thực hiện ý đồ gây chia rẽ, thù hằn giữa dân ta với người Trung Hoa của mấy ông Tây cai trị.

Thực nghiệp dân báo.
Sự kiện thứ hai là việc học trò Trường Bưởi đã “dạy” học trò Tây bài học “thế nào là lễ độ”.
Ngày ngày bốn lượt đi về, học trò hai trường Bưởi và Lýt-xê phải cùng đứng ngồi chung trong toa xe điện. Ngoài ra còn có cả hành khách là người Việt Nam. Bọn Tây con thường tỏ ra hỗn láo, hống hách với số hành khách cùng đi. Chuyện cứ diễn ra hằng ngày, gây sự bất bình trong đám học trò của ta. Ban đầu chỉ là vài lời nhỏ nhẹ, nhưng bọn Tây con vẫn chứng nào tật nấy. Nỗi ấm ức cứ như bị đè nén lâu ngày trong lòng mỗi người và chỉ chờ có dịp là vỡ tung ra. Dịp ấy đã đến. Nói chuyện bằng lời lẽ không xong, buộc học trò ta phải dùng chân tay guốc dép “nói chuyện” với học trò Tây. Và bữa ấy trong một cuộc cãi vã với bọn Tây con, học trò ta đã nhất loạt nện cho chúng một trận nhừ tử.
Câu chuyện trên đây đã làm cả Hà Nội xôn xao bàn tán. Bọn đầu xỏ thực dân không thể không quan tâm tới. Tên Thống sứ Bắc Kỳ phải thân hành đến Trường Bưởi để giải quyết.
Chúng tôi đều lo. Tuy vậy, ai cũng vui, ai cũng thấy hả lòng hả dạ vì lần đầu tiên không những đã dạy cho lũ Tây con, mà cả lũ Tây bố nữa, bài học thế nào là lễ độ trong việc ứng xử với dân Việt Nam ta.
Trong không khí “hừng hực thắng lợi” ấy, tôi đã viết một bài báo khá dài, mô tả khá tỉ mỉ sự kiện nói trên và lẳng lặng gửi cho tờ Trung Bắc tân văn vì đây là một tờ báo lớn đang có uy tín lúc đó mà không thấy đả động đến câu chuyện mà tôi cho là “động trời” ấy. Nhưng than ôi, tác phẩm đầu tay của tôi đã bị ném vào sọt rác. Một anh bạn thân hằng ngày chờ tin trên báo đã nói một câu mà tôi rất tâm đắc: “Báo không đăng một tin quan trọng như thế là ngu!”.
Mãi sau này, thành dân làng báo am hiểu tường tận tập tục làm ăn, lề thói và cả mánh lới trong làng, tôi mới hay tại mình dốt, không biết báo Trung Bắc tân văn ra đời cốt để làm cái việc ngu dân chứ nó đâu có ngu. Nó là đứa con thứ sáu của lão phù thủy thực dân Schneider. Tuy lão là Tây chính cống nhưng những “đứa con” của lão đều nói tiếng Việt. “Đứa” đầu lòng gọi là “Đại Nam đồng văn nhật báo” sinh năm 1893. “Đứa” thứ hai tên là “Đăng Cổ tùng báo” sinh năm 1907. Rồi “Lục tỉnh tân văn”, “Đông Dương tạp chí”, “Học báo”.
Rồi tôi sẽ có dịp trở lại chuyện này sau.

Biệt thự của ông chủ nhà máy giấy Schneider (1898).
Tưởng rằng phen này, cụ lớn Thống sứ Bắc Kỳ phải đích thân tới trường, lại kèm theo cả một lũ mật thám chạy tới chạy lui, chắc câu chuyện sẽ rắc rối lắm đây. Ai ngờ chúng làm thế cốt là để khoanh vùng, bóp cho nhỏ câu chuyện lại và không cho nó loang rộng ra các nơi khác. Báo không đăng bài của tôi cũng vì lí do đó. Tuy vậy tôi không hề nản chí, tôi vẫn kiên trì viết, viết rồi bỏ, rồi viết. Trong số ấy, tôi chọn được 2 bài gửi cho Trung Bắc tân văn. Vì học báo mà cả 2 bài ấy đều được đăng. Một bài nói về truyện ngụ ngôn của La Fontaine và một bài phê bình các cửa hàng buôn bán làm mất vẻ mỹ quan của 36 phố phường.
Lần đầu tiên thấy bài mình đăng trên báo, tôi vui mừng khôn xiết. Tôi tự tin hơn, chăm đọc và chăm viết hơn để tự trau dồi nghề nghiệp và kinh nghiệm viết lách với một ước mơ hết sức chân thành và ngây thơ là mình sẽ trở thành một nhà báo thực thụ, chuyên bênh vực quyền lợi của dân mình, đả kích bè lũ thực dân cướp nước và bọn quan lại bản xứ thối nát. Giờ đây ngồi nghĩ lại, tôi không thấy có điều gì phải hổ thẹn về công việc mình đã làm suốt thời kỳ làm báo dưới chế độ thực dân hà khắc.
(Còn nữa)