Tầm quan trọng của di tích trường lũy
Sáng 25/8, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Gia Lai phối hợp Viện Khoa học - Xã hội vùng Nam bộ tổ chức hội thảo khoa học “Nghiên cứu giá trị và định hướng bảo tồn, phát huy giá trị di tích trường lũy Gia Lai” và báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khảo cổ di tích trường lũy.
Theo ông Nguyễn Viết Tuấn, Phó trưởng phòng nghiệp vụ bảo tàng (Bảo tàng tỉnh Gia Lai), trường lũy là bờ lũy dài được đắp bằng đất và đá nằm về phía Đông Trường Sơn, bắt đầu từ huyện Trà Bồng cũ của tỉnh Quảng Ngãi kéo dài đến huyện An Lão, tỉnh Bình Định cũ (nay là Gia Lai). Trong tổng chiều dài khoảng 127,4km của tuyến lũy, đoạn lũy đi qua địa phận Gia Lai có chiều dài khoảng 14,4km, nằm trên địa bàn 3 địa phương là: Phường Hoài Nhơn Bắc, xã An Lão và xã An Hòa. Tuyến lũy nằm trên độ cao từ 400-800m so với mực nước biển, kéo dài từ đồi Đá Lửa (khu vực La Vuông (phường Hoài Nhơn Bắc) đi qua xã An Lão đến xã An Hòa.

Hội thảo quy tụ nhiều nhà khoa học tại Gia Lai, chính quyền địa phương và nhà khoa học của Viện Khoa học - Xã hội vùng Nam bộ tham gia. Ảnh: V.Đ.T.
Còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Khoa học lịch sử tỉnh Gia Lai, tuyến lũy đi qua Gia Lai có 19 đồn (bảo), mỗi đồn cách nhau từ 500 - 1.000m; men theo tường lũy còn dấu tích một con đường cổ chạy song song phía Đông tuyến lũy; theo sử sách, đây là đường thiên lý Bắc - Nam.
Cũng theo ông Quang, vào các năm 2009, 2010, 2011, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cùng Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bình Định cũ khảo sát thực địa trường lũy đi qua tỉnh này. Năm 2012, Bảo tàng tỉnh Bình Định cũ phối hợp với Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cùng Viện Khảo cổ học Việt Nam tổ chức khai quật khảo cổ di tích Đồn Thứ (La Vuông, phường Hoài Nhơn Bắc hiện nay), điểm đầu của trường lũy Gia Lai tiếp giáp với trường lũy Quảng Ngãi. Năm 2025, Bảo tàng tỉnh Gia Lai phối hợp với Trung tâm Khảo cổ thuộc Viện Khoa học - Xã hội vùng Nam bộ tiếp tục khai quật, khảo cổ di tích trường lũy tại xã An Lão và xã An Hòa hiện nay.
“Trường lũy là di tích kiến trúc đa dạng về chất liệu, di tích có cấu trúc độc đáo; trường lũy được xây dựng, gia cố, mở rộng suốt hơn 3 thế kỷ, đây là kỳ công của người Việt xưa. Điểm kỳ vĩ của trường lũy không chỉ về độ dài, mà còn ở đặc điểm liên quan giữa quân sự và văn hóa. Các triều đại nhà Nguyễn xây dựng lũy để gìn giữ an ninh miền biên viễn giữa vùng đồng bằng và miền núi. Tuyến lũy cắt ngang nhiều sông, suối, tại mỗi điểm cắt được thiết lập một đồn trú quân nhằm kiểm soát người qua lại, vừa mở lối giao thương hàng hóa của người dân miền xuôi và đồng bào Hrê, Cadong, Xơ đăng ở miền ngược; lâm thổ sản đưa xuống đổi lấy muối, mắm mang về…”, ông Nguyễn Thanh Quang cho biết.

Bà Đỗ Thị Diệu Hạnh, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Gia Lai, phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: V.Đ.T.
Cũng theo ông Quang, chất liệu xây dựng trường lũy gồm đất và đá, có đoạn toàn là những cục đá xếp chồng lên nhau, có đoạn toàn đắp bằng đất, có đoạn bên trong là đất bên ngoài là đá. Cách xếp đá cũng mang nét đặc thù của đồng bào miền núi, chứng tỏ trường lũy là công trình “hữu hảo” của đồng bào miền ngược và người dân miền xuôi.
GS Phan Huy Lê nhận định: Trường lũy không chỉ là công trình phòng thủ quân sự đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, đó là giao thương giữa miền biển và miền núi. Các đồn (bảo) vừa kiểm soát thu thuế, đồng thời bảo đảm an ninh cho giao thương.
“Trường lũy là công trình kiến trúc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu của tiền nhân. Một công trình mang ý nghĩa về lịch sử, quân sự, văn hóa, kinh tế thời mở nước; là di sản quốc gia cần được bảo tồn và phát huy giá trị”, GS Phan Huy Lê nhấn mạnh.

Tại khu vực La Vuông (xã Hoài Nhơn Bắc, Gia Lai) nhiều đoạn trường lũy còn nguyên vẹn. Ảnh: V.Đ.T.
Người dân là chủ thể, vừa bảo tồn vừa hưởng lợi
Trình bày tham luận tại Hội thảo, TS Nguyễn Khánh Trung Kiên, Phó Viện trưởng Viện Khoa học - Xã hội vùng Nam bộ cho biết, đợt khai quật di tích trường lũy đoạn đi qua Gia Lai trong năm 2025 tại các điểm đồn lũy Dông Hầm, H4 và An Quang đã mang lại nhiều tư liệu mới về cấu trúc và kỹ thuật xây dựng công trình phòng ngự này. Kết quả nghiên cứu mới cũng đã cung cấp thêm tư liệu về một số di tích dạng đồn - lũy ở Gia Lai; qua đó, góp phần nghiên cứu so sánh với trường lũy Quảng Ngãi nhằm mang lại nhận thức toàn diện hơn với nguồn sử liệu, bổ sung những tri thức khoa học về lịch sử vùng đất này.
Cũng theo TS Kiên, các kết quả khảo cổ học và điều tra dân tộc học gần đây cho thấy quá trình hình thành trường lũy có thể đã bắt đầu từ thế kỷ XVII.

TS Nguyễn Khánh Trung Kiên, Phó Viện trưởng Viện Khoa học - Xã hội vùng Nam bộ, phát biểu tại hội thảo. Ảnh: V.Đ.T.
“Những kết quả thu được từ đợt khai quật các điểm đồn H4, đồn Dong Hầm và đồn An Quang đã cung cấp những tư liệu quan trọng, góp phần làm sáng tỏ kỹ thuật xây dựng và cấu trúc của trường lũy. Các phát hiện cho thấy kỹ thuật xây dựng trường lũy là sự kết hợp linh hoạt giữa việc sử dụng vật liệu bản địa, thích ứng cao với địa hình tự nhiên. Cấu trúc chân móng và hệ thống tường phòng thủ phản ánh trình độ tổ chức quân sự và kỹ thuật xây dựng nhuần nhuyễn của triều Nguyễn trong quá trình thiết lập hệ thống phòng ngự vùng biên giới giữa đồng bằng và miền núi. Công trình nằm trong quy hoạch tổng thể có tổ chức, do chính quyền trung ương triều Nguyễn điều phối và giám sát”, TS Kiên cho biết.
Theo đánh giá của TS Kiên, phần lớn tuyến trường lũy đi qua địa bàn Gia Lai hiện còn khá nguyên vẹn, tuy nhiên, công trình này đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại do các hoạt động trồng rừng kinh tế, làm đường giao thông; thêm vào đó, công trình này đang thiếu chính sách bảo vệ di tích cấp quốc gia. Trong khi tuyến trường lũy nằm trên địa bàn Quảng Ngãi đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia từ năm 2011 với tên gọi là Trường lũy Quảng Ngãi thì tuyến trường lũy đi qua Bình Định trước đây (nay là Gia Lai) chưa được xếp hạng.

Kết quả khai quật tại các điểm đồn H4, đồn Dong Hầm và đồn An Quang theo trình bày của TS Nguyễn Khánh Trung Kiên. Ảnh: V.Đ.T.
Cũng theo TS Kiên, Gia Lai cần thiết phải có chiến lược bảo tồn bền vững theo hướng tiếp cận khảo cổ học cộng đồng, nhằm kết nối vai trò của người dân địa phương, những người không chỉ đang sống cùng di tích mà còn có quan hệ văn hóa - lịch sử lâu đời với nó.
“Do đó, để phát huy giá trị của di tích, Gia Lai có thể triển khai các chương trình khảo cổ học cộng đồng tại các đoạn lũy còn nguyên vẹn như ở khu vực La Vuông (xã Hoài Nhơn Bắc); thông qua việc mời người dân địa phương trực tiếp tham gia điều tra, khai quật, phục dựng di tích. Những hoạt động này cần gắn liền với đào tạo kỹ thuật, phổ biến kiến thức và tạo sinh kế cho người dân thông qua du lịch văn hóa, du lịch sinh thái. Kết hợp giữa di tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái để mở ra tiềm năng phát triển du lịch bền vững”, TS Nguyễn Khánh Trung Kiên gợi mở.

Nhiều đoạn lũy đi qua Gia Lai bên trong là đất, bên ngoài là đá. Ảnh: V.Đ.T.
“Bên cạnh đó, cần xây dựng các thiết chế “bảo tàng cộng đồng” hoặc “trạm bảo tồn tại chỗ”, do chính quyền các thôn, bản cùng quản lý thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan nhà nước. Việc sử dụng bản đồ di tích số hóa, kỹ thuật 3D, ứng dụng công nghệ GIS và tư liệu hóa truyền khẩu cũng nên được đồng bộ hóa, giúp cộng đồng dân cư vừa giữa vai trò chủ thể vừa là người hưởng lợi”, TS Nguyễn Khánh Trung Kiên đề xuất.