Từ năm 1997, GS. TSKH Phạm Hồng Giang giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đó cũng là giai đoạn ngành thủy lợi chứng kiến quá trình nghiên cứu, chuẩn bị đầu tư và xây dựng hàng loạt hồ đập thủy lợi lớn, nhất là tại “khúc ruột” miền Trung như Cửa Đạt (tỉnh Thanh Hóa), Định Bình (tỉnh Bình Định cũ, nay là tỉnh Gia Lai), Tả Trạch (Huế)… Phía sau những công trình kỳ vĩ là biết bao câu chuyện thú vị, được GS Phạm Hồng Giang chia sẻ với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường.

GS. TSKH Phạm Hồng Giang, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chia sẻ với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường về ký ức khi xây dựng các công trình hồ đập lớn ở miền Trung.
Những công nghệ mới nhất, tạo dấu ấn đối với quốc gia
Có thể nói, các công trình thủy lợi có đặc điểm là không công trình nào giống công trình nào. Do đó, mỗi công trình đều để lại trong tôi ấn tượng, kỷ niệm và cả những bài học. Dù đó là công trình lớn hay nhỏ.
Nhưng có lẽ, những công trình ấn tượng nhất với tôi là một loạt đập hồ chứa nước ở dải đất miền Trung. Đây cũng là những công trình ứng dụng công nghệ mới nhất, tạo dấu ấn không chỉ cho ngành mà đối với cả quốc gia.
Đầu tiên là công trình hồ chứa nước Cửa Đạt, là đập đá đổ đầm nén bản mặt bê tông cao nhất Đông Nam Á. Trước đó ở Việt Nam cũng có thủy điện Rào Quán ở tỉnh Quảng Trị làm bằng loại đập này, tuy nhiên chiều cao đập chưa đến 90m. Trong khi đó, đập Cửa Đạt cao 118m. Đối với công trình đá đổ đầm nện phủ mặt bê tông, việc đắp cao lên khoảng ngắn thôi cũng phải giải quyết một loạt các vấn đề về kỹ thuật, và cần nghiên cứu, thử nghiệm, chuẩn bị rất kỹ từ thiết kế cho đến thi công. Do đó, đối với loại đập này, ở khu vực Đông Nam Á chưa có công trình nào cao đến 118m như vậy.

Hồ chứa nước Cửa Đạt có đập cao 118m, được xây dựng bằng công nghệ đá đổ đầm nén bản mặt bê tông. Ảnh: Đồng Thái.
Ở những giai đoạn trước, dù nhiều chuyên gia trong ngành thủy lợi đã nghĩ đến việc xây dựng đập đá đổ, nhưng không ai dám làm vì không có công nghệ và trang thiết bị thi công phù hợp, nhất là không có máy đầm đủ mạnh có thể nén những viên đá chắc lại với nhau.
Ngoài ra, tôi có kỷ niệm rất đặc biệt đối với quá trình xây dựng đập hồ chứa nước Định Bình (tỉnh Bình Định cũ), bởi đây là công trình đập bê tông đầm lăn đầu tiên của Việt Nam được đề xuất triển khai. Đặc điểm nổi trội của bê tông đầm lăn là sử dụng rất ít xi măng nhờ thay thế tro bay từ các nhà máy nhiệt điện, do vậy hạn chế quá trình thủy hóa sinh nhiệt trong khối bê tông và có thế thi công liên tục hết lớp này lên lớp khác giống như đập đất. Các lớp bê tông được nén chặt với nhau bằng máy đầm 30-40 tấn, do đó tiến độ hoàn thành rất nhanh.
Trước đây chúng ta vẫn xây đập thủy lợi bằng bê tông thường (trộn xi măng cùng với các hợp chất khác như cát, sỏi...) để tạo thành vữa bê tông đố thành từng khối. Tuy nhiên, quá trình thủy hóa của bê tông thường sinh ra nguồn nhiệt rất lớn, dễ tạo ra các vết nứt thân đập. Bên cạnh đó, chúng ta không thể thi công liên tục mà phải chờ khối bê tông trước đông cứng lại rồi mới đổ lớp tiếp theo, rất mất thời gian.

Hồ Định Bình (tỉnh Bình Định cũ, nay là tỉnh Gia Lai) được xây dựng bằng công nghệ bê tông đầm lăn.
Tôi nhớ năm 1999 xảy ra trận lụt rất lớn ở các tỉnh miền Trung. Sau trận lụt đó, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải vào họp ở Thừa Thiên - Huế. Thủ tướng có gọi tôi và hỏi: "Này, ông xem miền Trung cần xây dựng những hồ đập lớn nào thì liệt kê ra đây cho tôi". Và trong cuộc họp đó, Thủ tướng quyết định luôn phải triển khai các dự án, trong đó có đập Tả Trạch và đập Định Bình.
Mặc dù đã được đưa vào danh mục dự án đầu tư, nhưng làm đập thế nào là quá trình rất gian nan, vì theo thiết kế ban đầu, đập Định Bình được thi công bằng bê tông thường. Nếu chuyển sang bê tông đầm lăn thì đơn vị thiết kế "bó tay" vì chưa làm bao giờ, và muốn làm thì phải khảo sát, đo đạc, tính toán, nghiên cứu và thiết kế lại từ đầu trong khi tiền không có. Thứ nữa là ở Việt Nam chưa có đơn vị nào làm được bê tông đầm lăn, kể cả Công ty Xây dựng 47 là đơn vị xây dựng có tiềm lực mạnh và uy tín lúc đó cũng e ngại, không muốn làm.
Không chỉ đơn vị thiết kế, thi công mà tỉnh Bình Định cũng sốt ruột vì nếu làm bê tông đầm lăn thì phải thí điểm, rất lâu và rất mệt. Do vậy, địa phương không đồng tình.

Đập không tràn bên phải hồ chứa nước Định Bình. Ảnh: Tuấn Anh.
Ở góc độ quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khi ấy, chúng tôi cho rằng nếu không làm bê tông đầm lăn thì ngành thủy lợi sẽ tụt hậu, trong khi thế giới rục rịch làm rất nhiều công trình. Bởi vậy, lãnh đạo Bộ cương quyết, nói với đơn vị thiết kế rằng: "Chúng tôi yêu cầu thế nào các anh cứ làm đi, cần bao nhiêu kinh phí tôi sẽ lo liệu. Lúc đó họ mới quyết tâm làm". Còn đối với nhà thầu thi công, công ty cần đi đâu, cần tìm hiểu, cần học hỏi cái gì Bộ sẽ lo kinh phí. Bởi vậy, đơn vị thi công đã tổ chức tham quan, học tập ở bên Trung Quốc. Họ rất nghiêm túc, học đến nơi đến chốn và về Việt Nam làm rất tốt.
Đến mức, sau khi hoàn thành xây dựng đập Định Bình, đơn vị kiểm tra chất lượng tại Thụy Sỹ sang kiểm định thực tế, họ đánh giá bê tông đầm lăn của ta tốt quá nên lấy mẫu về trưng bày trong tủ kính tại trụ sở bên Thụy Sỹ.
Những công trình phục vụ đa mục tiêu
Hồ Tả Trạch cũng là công trình được Thủ tướng Phan Văn Khải yêu cầu xây dựng sau trận lụt năm 1999, trong đó Thừa Thiên - Huế là địa phương ngập nặng nhất, thiệt hại nặng nề nhất. Ban đầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt vấn đề xin viện trợ ngồn vốn ODA của Nhật Bản. Các chuyên gia của JICA cũng đã khảo sát, đo đạc rất kỹ để đề xuất tài trợ vốn, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau nên không thể thực hiện được.
Cuối cùng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề đạt với Chính phủ sử dụng nguồn vốn trong nước để làm và được Thủ tướng đồng ý. Rất mừng là các cơ quan, ban ngành Trung ương đều thực hiện quyết liệt chỉ đạo của Thủ tướng. Và địa phương cũng làm rất trách nhiệm. Thậm chí ông Bí thư Tỉnh ủy khi đó nói với chúng tôi rằng: "Bây giờ cần phải làm gì để xây dựng được cái đập như thế tôi cũng sẽ làm".
Điều kiện để làm đập lúc đó không đơn giản, bởi nó nằm trên nền địa chất phức tạp. Khi ấy, Cục Quản lý xây dựng công trình đã cử đồng chí Nguyễn Hoàng Nam biệt phái làm Giám đốc Ban Quản lý đầu tư xây dựng Thủy lợi 5 để phụ trách công trường, cho nên làm đập rất tốt. Và thực tế, các đợt lũ lớn những năm qua, hồ Tả Trạch thực hiện vai trò cắt lũ rất tốt cho vùng hạ du. Theo tính toán của cơ quan chuyên môn, nếu không có hồ Tả Trạch cắt lũ, trận lụt lịch sử vào cuối tháng 10/2020, thành phố Huế sẽ ngập sâu thêm 1,2m.

Hồ Tả Trạch vào mùa mưa lũ. Ảnh: Nguyễn Phong.
Những công trình mà tôi kể trên đây đều gắn liền với quá trình lắng nghe và nắm bắt khoa học công nghệ mới và tổ chức học hỏi kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo vào đặc thù từng vị trí xây dựng công trình thủy lợi.
Ngành thủy lợi đang được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Cụ thể, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 36/KL-TW ngày 23/6/2022 về đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thủ tướng Chính phủ cũng vừa mới ban hành Quyết định số 847/QĐ-TTg ngày 14/7/2023 phê duyệt Quy hoạch Phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đây là các văn bản rất quan trọng tạo điều kiện cho ngành thủy lợi căn cứ vào đó để triển khai hoạt động. Và phải nói một điều là, nước rất cần thiết cho mọi người, kể cả trong sản xuất và đời sống dân sinh, cải tạo môi trường sống.
Chúng ta vẫn thường nói nước là tài nguyên, và cũng giống như các tài nguyên khác, muốn khai thác nguồn nước hiệu quả để phục vụ con người thì phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng. Ví dụ, ngày xưa ông cha ta sử dụng chum, vại hứng nước mưa để dùng quanh năm. Nhưng bây giờ nguồn nước phục vụ cho cả phát triển kinh tế dân sinh và đô thị lớn, thì càng cần thiết phải đầu tư kết cấu hạ tầng. Có thể là chúng ta xây đập để tạo hồ trữ nước lúc dư thừa. Khi thượng nguồn hết nước, hết mưa thì chúng ta sử dụng cho mùa khô. Rồi chúng ta cũng cần đầu tư hệ thống dẫn nước để đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, ví dụ, hồ Hòa Bình, hồ Sơn La là kho nước rất lớn, nhưng đối tượng cần sử dụng nguồn nước nhiều nhất lại là các đô thị ở hạ du. Do đó, quản lý tài nguyên nước tức là phải có hệ thống kết cấu hạ tầng và quản lý kết cấu hạ tầng đó.
Trong Kết luận 36 của Bộ Chính trị và Quyết định số 847 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ rõ những nhiệm vụ, yêu cầu đầu tư xây dựng các công trình trên khắp cả nước. Tôi tin tưởng rằng, qua quá trình trưởng thành và phát triển, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường luôn là đơn vị tiên phong trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và là "cục nam châm" hút tri thức tiến bộ của thời đại để dựng xây thật nhiều những công trình mang lại hiệu quả cho quốc gia.