| Hotline: 0983.970.780

Chuyện làng, chuyện nước và chuyện ông Võ Hồng Phúc

Thứ Hai 08/12/2025 , 12:23 (GMT+7)

Trò chuyện thú vị cùng ông Võ Hồng Phúc - nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư dịp kỷ niệm 80 năm Báo Tấc Đất.

Thân thiện, giản dị và nhiều ngẫm ngợi, ở tuổi 80 (sinh năm 1945) ông Võ Hồng Phúc - nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tự hào cuộc đời mình đã đi trọn với hành trình đất nước.

Thành thử nói chuyện 80 năm qua không thể bằng con mắt của một người quan sát từ xa mà là bằng ký ức sống động của một chứng nhân trực tiếp nếm trải từ công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đến thời kỳ bao cấp, đổi mới, hội nhập quốc tế và cho đến hôm nay.

Chuyện làng, chuyện nước

Ông Võ Hồng Phúc mở đầu câu chuyện với chủ đề làng. Khá lạ. Bởi ai cũng biết rằng sự nghiệp ông gắn liền với Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), với các vấn đề kinh tế vĩ mô, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư..., nghĩa là chuyện quốc gia đại sự, cớ làm sao lại nghĩ ngợi chuyện làng?

Ông bảo: Sau 80 năm đất nước đã có rất rất nhiều thay đổi nhưng thay đổi lớn nhất, đặc biệt nhất là vùng nông thôn, một sự biến đổi hoàn toàn, nhìn vào những ngôi nhà ở nông thôn đã thấy đổi thay rất lớn.

Ông Võ Hồng Phúc: Sau 80 năm đất nước đã có rất rất nhiều thay đổi nhưng thay đổi lớn nhất, đặc biệt nhất là vùng nông thôn. Ảnh: Tùng Đinh.

Ông Võ Hồng Phúc: Sau 80 năm đất nước đã có rất rất nhiều thay đổi nhưng thay đổi lớn nhất, đặc biệt nhất là vùng nông thôn. Ảnh: Tùng Đinh.

Tôi là người xuất thân từ nông thôn và cuộc đời tôi trải qua những năm tháng gian khổ nhất cũng ở nông thôn. Hà Tĩnh quê tôi ngày trước là một tỉnh nghèo. Dù vùng Tùng Ảnh - Đức Thọ có khấm khá hơn so với mặt bằng chung của tỉnh nhưng vẫn cứ thuộc diện nghèo. Nhớ lại thời kỳ Cải cách ruộng đất năm 1955, làng tôi có 5 gia đình thuộc thành phần địa chủ, giàu có nhất làng nhưng cũng chỉ 3 gia đình có nhà mái ngói, còn lại là nhà tranh, tường làm bằng ván gỗ. Cũng ngôi làng ấy 70 năm sau, mỗi lần về lại là một sự đổi khác. Nhà nghèo nhất làng bây giờ cũng khang trang hơn nhiều so với địa chủ trước kia.

Tương tự, nếu bây giờ chúng ta đến thăm nhà địa chủ Nghị Quế, địa chủ ở trong tác phẩm "Tắt đèn" ở tỉnh Hà Nam cũ cũng thấy rằng, cơ ngơi của một địa chủ sừng sỏ, vừa có quyền vừa có tiền khi đó nếu đem so với nhà cửa ở làng hôm nay cũng chẳng thấm vào đâu. Rồi nhiều vùng nông thôn khác của đất nước, sự đổi thay là rất lớn và tất nhiên cùng với đó là đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân cũng được nâng cao.

Chúng ta nhìn vào hệ thống giao thông, giáo dục, y tế. Đường sá khang trang đi vào đến tận nhà, giáo dục được phổ cập, sức khỏe người dân ngày càng được chăm lo… Đó là những thành tựu rất lớn trong suốt 80 năm qua kể từ ngày khai sinh chính thể mới của đất nước. Tất nhiên trong một số bối cảnh lịch sử nhất định chúng ta mắc phải những khiếm khuyết, sai lầm và có những tiếc nuối.

Ví dụ năm 1960 kinh tế Việt Nam đáng lẽ phải phát triển tột bậc khi trải qua Cải cách ruộng đất, người cày có ruộng và nông nghiệp đi lên “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” như lời thơ Tố Hữu. Tuy nhiên do đường lối hợp tác hóa, cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp (đặc biệt ở khu vực nông thôn) đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân và kéo nền kinh tế đi xuống.

Làng Tùng Ảnh (Hà Tĩnh), quê hương ông Võ Hồng Phúc. Ảnh: Tùng Đinh.

Làng Tùng Ảnh (Hà Tĩnh), quê hương ông Võ Hồng Phúc. Ảnh: Tùng Đinh.

Nhớ mãi năm 1961. Khi đó tôi đã sống ở Hà Nội, đang khá đầy đủ bỗng nhiên lại thành lao đao. Việc phát triển kinh tế theo hướng tập thể hóa, xây dựng các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã khiến nông nghiệp đi xuống, lương thực, thực phẩm khan hiếm. Những năm tiếp theo đó chúng ta phải sử dụng tem phiếu và rơi vào một thời kỳ đói ăn cả ở nông thôn lẫn thành thị. Chưa kể, cả dân tộc phải dồn nguồn lực cho tiền tuyến để đấu tranh giải phóng dân tộc. Đất nước không đủ ăn phải trông cậy vào chi viện lương thực từ các nước anh em. Năm 1969, tôi công tác ở Ủy ban Kinh tế nhà nước (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), đi sang Liên Xô xin được khoảng 1 - 1,4 triệu tấn bột mỳ thì vô cùng quý giá. Có giai đoạn Liên Xô không còn bột mỳ, chỉ viện trợ cho chúng ta hạt bo bo nhưng vẫn phải lấy vì nhân dân còn đang thiếu ăn, trẻ em còn suy dinh dưỡng.

Hòa bình lập lại, chúng ta vẫn tiếp tục con đường “hợp tác hóa, cơ chế tập trung” và tiếp tục thiếu ăn. Phải đến những năm sau 1980 mới nhận ra vấn đề và bắt đầu có những sự đổi mới về nông nghiệp, trong đó phải kể đến các chính sách Khoán 100 (năm 1981), Khoán 10 (năm 1986) đã mở ra con đường mới cho phát triển nông nghiệp, phát triển đất nước.

Đặc biệt Đại hội VI của Đảng năm 1986 với đường lối Đổi mới bắt đầu từ nông nghiệp sau đó là đổi mới mạnh mẽ hơn, triệt để hơn trong quan hệ đối ngoại, hội nhập với kinh tế thế giới. Từ đó, kinh tế Việt Nam ngày càng đi lên. Không ai ngờ được rằng, cùng trên một dải đất hình chữ S đấy, Việt Nam giờ đây đã trở thành cường quốc nông nghiệp, đứng tốp đầu thế giới nhiều mặt hàng như: cà phê, lúa gạo, trái cây, thủy sản… Nhiều quốc gia trên thế giới phải phụ thuộc vào nguồn cung lương thực, thực phẩm của Việt Nam.

Thành tựu ấy làm tôi nhớ lại những năm đầu Đổi mới, năm 1990 chúng tôi đi sang Thái Lan xem cung cách phát triển nông nghiệp của họ và mơ ước. Nhưng bây giờ Việt Nam đã đuổi kịp và vượt Thái Lan trong nhiều lĩnh vực, từ giống cây trồng, giống vật nuôi cho đến sản lượng, năng suất… Phần lớn nhờ vào Đổi mới và thay đổi tư duy. Sau Đại hội VII chúng ta bắt đầu tiến hành đổi mới về quan hệ đối ngoại, mở cửa với nước ngoài. Đầu tiên là tham gia ASEAN, rồi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, tiếp nhận các chuyên gia của Ngân hàng thế giới vào tham khảo các chính sách phát triển kinh tế, đường lối đổi mới... Tiếp đó là gia nhập WTO, thu hút được vốn đầu tư, công nghệ và quan trọng nhất là mở rộng được thị trường.

Đổi mới, đột phá từ nông nghiệp và mở cửa thị trường, chúng ta có cơ sở để phát triển nông nghiệp một cách toàn diện và đạt được những thành tựu như ngày nay. Nông nghiệp góp phần lớn giúp cho vị thế, hình ảnh của Việt Nam thay đổi rất nhiều trong mắt bạn bè quốc tế, từ đó có nhiều quốc gia quan tâm đến việc phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Khi xây dựng chiến lược hợp tác với Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng châu Á hay UNDP, Nhật Bản... chúng ta luôn gắn liền 2 mục tiêu là tăng trưởng đi cùng với xóa đói giảm nghèo. Chiến lược này được giữ xuyên suốt từ 1995 cho đến những năm 2010, trở thành trụ cột phát triển của Việt Nam trong cả một giai đoạn.

Ông Võ Hồng Phúc: Nông nghiệp góp phần lớn giúp cho vị thế, hình ảnh của Việt Nam thay đổi rất nhiều trong mắt bạn bè quốc tế. Ảnh: Tùng Đinh.

Ông Võ Hồng Phúc: Nông nghiệp góp phần lớn giúp cho vị thế, hình ảnh của Việt Nam thay đổi rất nhiều trong mắt bạn bè quốc tế. Ảnh: Tùng Đinh.

Chuyện của chúng tôi

Thực ra đó là tên một cuốn sách mới xuất bản của nguyên Bộ trưởng Võ Hồng Phúc.

 “Chuyện của chúng tôi” được ông viết trong thời kỳ Covid-19, “buồn nên bắt đầu viết về sự cô quạnh đăng lên Facebook”. Sau có nhiều người nói tôi có khả năng viết hay và xúc động nên tôi mới mạnh dạn ghi chép lại những gì đã trải qua, từ ngày ở quê cho đến khi đi học, đi làm.

Thế rồi tôi viết, nhưng không viết ở góc nhìn của tôi, lý do là đây không phải những câu chuyện của riêng tôi, mà là câu chuyện của nhiều người, nhiều thế hệ. Những câu chuyện của làng, chuyện của họ, rồi chuyện bạn học, cơ quan, đồng nghiệp, đối tác... Đó là lý do mà cuốn sách được đặt tên là "Chuyện của chúng tôi".

Khi viết cuốn sách này, tôi chỉ mong muốn giúp mọi người nhìn lại, hình dung lại, hồi tưởng lại một cách đầy đủ về một thời đã qua, từng giai đoạn, từng thời kỳ. Có thể những câu chuyện tôi kể chưa bao trùm được toàn cảnh xã hội nhưng đã phản ánh được phần nào bối cảnh xã hội, đời sống ở Việt Nam mấy chục năm qua, một dòng chảy mà tôi sống trong đó.

Trong dòng chảy này, tôi có may mắn, có diễm phúc được tiếp xúc, làm việc với những lãnh đạo lớn của đất nước như Tổng Bí thư Đỗ Mười hay Thủ tướng Võ Văn Kiệt, những con người mẫu mực của việc vì dân vì nước.

Tôi đặc biệt có nhiều kỷ niệm với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Đó là một người quyết đoán, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trước nhất, vì nhân dân mà làm. Với ông, một khi đã vì dân mà làm thì không cần câu nệ các thủ tục hành chính phức tạp, phải tìm mọi cách xử lý.

Ông Võ Hồng Phúc kể về 'Chuyện của chúng tôi'. Ảnh: Tùng Đinh.

Ông Võ Hồng Phúc kể về "Chuyện của chúng tôi". Ảnh: Tùng Đinh.

Đầu năm 1988, tôi đi Hoàng Liên Sơn, khi đó anh Bùi Quang Vinh (sau này là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) khi đó là Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tỉnh Hoàng Liên Sơn. Anh Vinh đưa tôi đi Văn Yên - huyện mới thành lập, gộp từ một phần của Văn Bàn và một phần của Trấn Yên, dân cư khoảng 3 vạn người, đa phần là dân di cư từ lòng hồ Thủy điện Thác Bà. Nghịch lý ở chỗ, cả khu vực quanh thủy điện đều đã có điện nhưng Văn Yên thì chưa, trong khi bà con ở đây đáng ra phải là những người được ưu tiên.

Tôi liền trao đổi với anh Vinh làm đề xuất ngay vấn đề này, lúc ấy nhiều lãnh đạo Hoàng Liên Sơn bày tỏ nghi ngại về việc phải điều chỉnh kế hoạch vừa công bố. Thế nhưng trình lên Phó Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông đồng ý ngay và chấp nhận điều chỉnh kế hoạch để cấp điện cho người dân.

Hay như chuyện xây dựng Thủy điện Hòa Bình, quá trình giải phóng mặt bằng có phương án triển khai gọi là "di vén", tức là nâng nước lên đến đâu thì di dân đến đấy. Cách làm này khiến những nơi cao nhất, "vén" sau cùng bị cô lập hoàn toàn.

Tôi báo cáo ông Sáu Dân, ông lập tức chỉ đạo thực hiện cơ chế như với Thủy điện Trị An, đó là xây dựng ngay những khu tái định cư và triển khai một chương trình đặc biệt để giải quyết chỗ ở và nơi sản xuất cho các hộ dân trong diện "di vén". Vấn đề của Thủy điện Hòa Bình được giải quyết ngay.

“Chuyện của chúng tôi” là vậy, những vùng đất, những con người hết sức, hết lòng với nhân dân, đất nước. Nếu người lãnh đạo nặng lòng với nhân dân sẽ bỏ qua thủ tục hành chính phiền hà, để có thể đáp ứng được yêu cầu cấp bách của sự phát triển đất nước.

“Mặt tiền” hướng Đông và tương lai rực rỡ

Nghĩ về tương lai đất nước, ông Võ Hồng Phúc bày tỏ: Hy vọng bằng đường lối đổi mới mà Đảng ta đã vạch ra, đất nước ta sẽ phát triển rực rỡ trong kỷ nguyên mới.

Có thể trong một chừng mực nào đó, trong giai đoạn và hoàn cảnh hiện tại đang còn những khó khăn nhưng hướng đi lên đã có. Nhất là với vị trí địa chính trị của Việt Nam, tôi trực tiếp nghe nhiều chính trị gia, chuyên gia, nhà nghiên cứu quốc tế đánh giá là “không quốc gia nào có được”.

Nông nghiệp và Môi trường vẫn là một ngành đem lại sự phát triển ổn định cho đất nước. Ảnh: Hoàng Anh.

Nông nghiệp và Môi trường vẫn là một ngành đem lại sự phát triển ổn định cho đất nước. Ảnh: Hoàng Anh.

Với “mặt tiền” hướng Đông, sang những trung tâm phát triển kinh tế như Nhật Bản, Hàn Quốc... hay xa hơn nữa là phía Tây của Hoa Kỳ, đất nước chúng ta là nơi đón được những trào lưu chuyển dịch của những nền kinh tế Thái Bình Dương, một vùng giao thương cực lớn, nếu có đường lối đúng đắn, hội nhập và cởi mở, tôi tin rằng Việt Nam sẽ có tương lai phát triển rất rực rỡ.

Nông nghiệp và Môi trường vẫn là một ngành đem lại sự phát triển ổn định cho đất nước. Đảm bảo an ninh lương thực luôn là vấn đề tối quan trọng với Việt Nam và thế giới, giúp đất nước chúng ta tạo vị thế trên trường quốc tế. Việt Nam cũng là quốc gia giàu tài nguyên, nếu khai thác hiệu quả sẽ đóng góp rất lớn cho quá trình phát triển, còn môi trường là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu và là trụ cột phát triển bền vững đất nước.

Bước vào kỷ nguyên mới, tôi nghĩ rằng vẫn sẽ còn đó những khó khăn vì tác động của tình hình thế giới và thay đổi trong nước, nhưng “vạn sự khởi đầu nan", Việt Nam sẽ vượt lên và tỏa sáng.

Xem thêm
Kiện toàn Tổ công tác đặc biệt xử lý vi phạm tại Phú Quốc

An Giang Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Hồ Văn Mừng vừa ký quyết định kiện toàn Tổ công tác đặc biệt xử lý vi phạm đất đai, lâm nghiệp, xây dựng tại đặc khu Phú Quốc.

Bình luận mới nhất

Chuyện làng, chuyện nước và chuyện ông Võ Hồng Phúc
Chính trị 7 giây trước