| Hotline: 0983.970.780

Thủy lợi ĐBSCL: Đầu tư lớn, quản trị phải xứng tầm

Thứ Ba 26/08/2025 , 14:04 (GMT+7)

Nhiều năm qua, hệ thống thủy lợi ĐBSCL được đầu tư mạnh mẽ, nhưng vẫn mong manh trước thiên tai, đặt ra thách thức trong đầu tư đồng bộ đi kèm quản lý hiệu quả.

Thủy lợi đồ sộ nhưng mong manh trước thiên tai

Vùng ĐBSCL vốn được thiên nhiên ưu đãi với hệ thống sông, kênh, rạch dày đặc, mật độ trên 4 km/km2. Chỉ tính riêng hai dòng chính của sông Tiền và sông Hậu đã tạo nên hệ thống thủy văn “đồ sộ”, phục vụ sản xuất và sinh kế hàng triệu hộ dân trong vùng. Cùng với đó là 744km đường bờ biển và hàng trăm cửa sông, dọc vùng ven biển đồng bằng còn có hệ thống đê biển, với chiều dài gần 600km, phía bên ngoài là rừng ngập mặn bảo vệ dân cư, cơ sở hạ tầng dọc bờ biển.

Hệ thống thủy lợi ở vùng ĐBSCL ngày càng được đầu tư hiện đại, phát huy hiệu quả phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Ảnh: Kim Anh.

Hệ thống thủy lợi ở vùng ĐBSCL ngày càng được đầu tư hiện đại, phát huy hiệu quả phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Ảnh: Kim Anh.

Theo ông Tăng Quốc Chính, đại diện Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhiều năm qua, hệ thống công trình thủy lợi ở ĐBSCL đã được quan tâm đầu tư với quy mô lớn. Toàn vùng có 15 hệ thống thủy lợi, hàng nghìn km kênh trục và kênh cấp I – III, gần 600 km đê biển cùng hàng nghìn cống, bọng, đập điều tiết.

Riêng từ năm 2016 đến nay, Trung ương đã bố trí hơn 16.000 tỷ đồng để xây dựng, nâng cấp, củng cố công trình phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn. Nhiều tuyến kênh quan trọng đã được nạo vét, mở rộng; hàng trăm km đê biển, đê sông được gia cố; hệ thống cấp nước sinh hoạt cũng được đầu tư, cấp nước cho khoảng 45.000 hộ dân.

Tuy nhiên, ông Chính đánh giá, những nỗ lực trên vẫn chưa đủ sức để ĐBSCL “chống chọi” với thiên tai ngày càng cực đoan. Đồng bằng vốn là vùng đất trù phú nhưng cũng rất “mong manh” trước tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và tình trạng sạt lở ngày càng khốc liệt. Nhất là từ đợt hạn mặn lịch sử 2015-2016 và 2019-2020 đã bộc lộ nhiều hạn chế.

Ông Tăng Quốc Chính, đại diện Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai chỉ ra một số thách thức về hạ tầng thủy lợi ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Ông Tăng Quốc Chính, đại diện Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai chỉ ra một số thách thức về hạ tầng thủy lợi ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Nhiều công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh, thiếu sự liên kết vùng khiến việc điều tiết nước giữa các hệ thống thủy lợi và các vùng gặp khó; thiếu các công trình kiểm soát mặn quy mô cấp tỉnh và vùng tại các cửa sông; các tuyến đê biển dù đã củng cố nhưng chưa đạt cao trình thiết kế; rừng ngập mặn chắn sóng phía ngoài bị suy giảm mạnh, làm giảm hiệu quả bảo vệ...

Đặc biệt, vấn đề nước sinh hoạt vẫn đang rất nan giải. Toàn vùng hiện còn gần 1 triệu hộ dân ở các tỉnh ven biển chưa được tiếp cận hệ thống cấp nước tập trung. Trong đó có hơn 50.000 hộ sống phân tán, rất khó đầu tư hệ thống đường ống. Vào mùa khô, chính quyền và người dân phải xoay xở bằng cách chở nước, đặt bồn chứa hoặc nhờ hỗ trợ từ các điểm cấp nước công cộng. Đây là thực tế cho thấy tính cấp bách trong việc đảm bảo nguồn nước ngọt ở vùng trọng điểm nông nghiệp quốc gia.

Bên cạnh đó, việc xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển về cơ bản còn mang tính chất tình thế “hỏng đâu làm đấy”. Các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển chưa đồng bộ, do chưa xác định được tuyến chỉnh trị sông và tuyến đường bờ biển ổn định làm cơ sở xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện trước mắt và yêu cầu lâu dài.

Một số công trình thủy lợi ở TP. Cần Thơ có dấu hiệu xuống cấp, sau nhiều năm đầu tư. Ảnh: Kim Anh.

Một số công trình thủy lợi ở TP. Cần Thơ có dấu hiệu xuống cấp, sau nhiều năm đầu tư. Ảnh: Kim Anh.

Từ năm 2016 đến nay, ĐBSCL đã đầu tư gần 30.000 tỷ đồng cho 278 công trình kè chống sạt lở, với tổng chiều dài hơn 500km. Tuy nhiên, nhiều điểm sạt lở vẫn tiếp tục mở rộng, trong đó có 35 vị trí đặc biệt nguy hiểm, dài hơn 90km, uy hiếp nhiều khu dân cư và hạ tầng quan trọng.

Các vấn đề trên khiến vùng ĐBSCL dễ bị tổn thương trước tác động kép của biến đổi khí hậu và hoạt động phát triển kinh tế thiếu bền vững.

Đầu tư lớn, hiệu quả quản lý phải đi cùng

Trước bối cảnh thiên tai ngày càng gay gắt, nhu cầu cấp thiết hiện nay là một chiến lược đầu tư đồng bộ, dài hạn cho hệ thống thủy lợi ĐBSCL, dựa trên quy hoạch tổng thể, gắn với sinh kế người dân và định hướng phát triển bền vững vùng.

Ông Tăng Quốc Chính cho rằng, trước hết, cần ưu tiên xây dựng, củng cố và nâng cấp các công trình chuyển và cấp nước, phòng chống hạn hán, kiểm soát mặn. Các hệ thống thủy lợi lớn như Bảo Định, Gò Công, Bắc - Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Quản Lộ - Phụng Hiệp, Ô Môn - Xà No, Cái Lớn - Cái Bé… cần được khép kín và hiện đại hóa để phát huy hiệu quả kiểm soát mặn, phân ranh sinh thái.

Đầu tư công trình thủy lợi cần đi kèm với phát huy hiệu quả quản lý, vận hành. Ảnh: Kim Anh.

Đầu tư công trình thủy lợi cần đi kèm với phát huy hiệu quả quản lý, vận hành. Ảnh: Kim Anh.

Bên cạnh đó, cần đầu tư, xây dựng các công trình kết nối, chuyển nước liên vùng. Điển hình là hệ thống thủy lợi Bảo Định - Gò Công - Tân Trụ (thuộc tỉnh Đồng Tháp - Tây Ninh); các công trình điều tiết, chuyển nước cho vùng Nam Quốc lộ 1A, bán đảo Cà Mau; các công trình tại các cửa sông Vàm Cỏ, Hàm Luông; củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển các tỉnh ven biển;

Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai dự kiến, tổng kinh phí đầu tư cho các công trình trên hơn 113.300 tỷ đồng, trong đó giai đoạn 2026-2030 cần trên 33.700 tỷ đồng và giai đoạn 2031-2035 là gần 41.540 tỷ đồng.

Đối với các công trình thủy lợi phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, ĐBSCL cần ưu tiên triển khai giải pháp công trình kết hợp với giải pháp sinh thái. Ngoài việc đầu tư kè, chỉnh trị sông, các địa phương vùng ĐBSCL phải đẩy mạnh trồng và phục hồi rừng ngập mặn ven biển. Bởi rừng không chỉ chắn sóng, giữ đất mà còn là lá chắn sinh thái quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Song song đó, cần quy hoạch di dời những hộ dân sống ven sông, ven biển, tránh tình trạng “cứ kè mãi mà sạt vẫn lở”. Riêng đối với các công trình này, kinh phí đầu tư dự kiến khoảng 70.000 tỷ đồng, chia thành 2 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 2026-2030 là 25.000 tỷ đồng và giai đoạn 2031-2035 là 23.000 tỷ đồng.

Ngoài hạ tầng thủy lợi, các công trình dự báo, cảnh báo cũng cần được đầu tư song hành để đồng bộ, hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn, tài nguyên nước; giám sát mặn, biến động bùn cát trên sông và vùng ven biển; diễn biến sạt lở...

Về cấp nước sinh hoạt, ngoài việc nâng cấp, mở rộng mạng lưới công trình tập trung, ngành chuyên môn cho rằng cần xây dựng thêm các hồ trữ nước ngọt phân tán quy mô hộ và cộng đồng. Đây là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện sống phân tán ở các tỉnh ven biển. 

Theo kế hoạch, tổng nhu cầu vốn đầu tư thủy lợi tổng thể cho giai đoạn tới lên đến hơn 180.000 tỷ đồng, chia thành hai giai đoạn 2026-2030 và 2031-2035. Trong đó, ưu tiên các hạng mục: công trình kiểm soát mặn, chuyển nước liên vùng, cấp nước sinh hoạt, công trình chống sạt lở và hệ thống quan trắc hiện đại. Đây là con số không nhỏ, quan trọng là nguồn lực đầu tư phải đi cùng quản lý hiệu quả.

Các công trình sau khi hoàn thành cần có cơ chế vận hành linh hoạt, phù hợp từng vùng sinh thái, tránh xung đột lợi ích giữa các ngành và địa phương. Sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu, bởi chính người dân mới là chủ thể sử dụng và bảo vệ công trình.

Xem thêm

Bình luận mới nhất