| Hotline: 0983.970.780

Thế khó của Cần Thơ khi số hóa hệ thống thủy lợi

Thứ Sáu 12/09/2025 , 11:49 (GMT+7)

Theo đuổi mục tiêu số hóa hệ thống thủy lợi, TP. Cần Thơ đối diện nhiều thách thức, từ hạ tầng xuống cấp, mạng lưới quan trắc thiếu hụt, đến bài toán vốn, nhân lực.

Số hóa hệ thống thủy lợi, không ít khó khăn

Sau sáp nhập, TP. Cần Thơ quy tụ 3 vùng sản xuất ngọt, mặn, lợ. Điều này đặt ra thách thức trong công tác quản lý nguồn nước, vận hành hợp lý, đồng bộ hệ thống thủy lợi để đảm bảo sản xuất và sinh hoạt của người dân.

Việc hiện đại hóa và chuyển đổi số trong vận hành hệ thống thủy lợi trở thành yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy, TP. Cần Thơ đang đối diện với không ít khó khăn cần tháo gỡ.

Ông Nguyễn Tấn Nhơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Cần Thơ cho biết, hệ thống thủy lợi hiện hữu chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi số. Đặc biệt là các công trình lâu nay đã xuống cấp, về mặt tự động hóa rất kém. Đặc biệt, đa số hệ thống cống được vận hành cơ học, cần có sự cải tạo, nâng cấp để đáp ứng được nhu cầu trong việc chuyển đổi số.

Sau nhiều năm đầu tư, nhiều công trình thủy lợi ở TP. Cần Thơ đã xuống cấp, khả năng tự động hóa kém. Ảnh: Kim Anh.

Sau nhiều năm đầu tư, nhiều công trình thủy lợi ở TP. Cần Thơ đã xuống cấp, khả năng tự động hóa kém. Ảnh: Kim Anh.

Việc thiếu các thiết bị giám sát hiện đại khiến công tác quản lý phụ thuộc nhiều vào nhân công trực tiếp tại hiện trường. Điều này vừa tốn kém, vừa thiếu tính kịp thời trong ứng phó với những tình huống bất ngờ như triều cường, sạt lở hay xâm nhập mặn.

Đối với mạng lưới quan trắc nước mặt, hiện nay cũng còn quá mỏng, khi toàn thành phố mới chỉ có 13 trạm, trong khi hệ thống kênh rạch kéo dài lên đến hơn 12.800 km. Con số này là quá ít so với nhu cầu thực tế. Việc thiếu trạm quan trắc khiến việc theo dõi, cảnh báo và dự báo tình hình nguồn nước không thể bao quát.

Do đó, để tiến tới số hóa, TP. Cần Thơ cần có hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn pháp lý làm nền tảng cho việc xây dựng và cải tạo các công trình thủy lợi. Đây không chỉ là cơ sở để đầu tư các dự án mới mà còn giúp định hướng quá trình nâng cấp, hiện đại hóa các công trình cũ, vốn đã tồn tại nhiều năm.

Bên cạnh đó, thành phố cũng cần xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ về hệ thống thủy lợi, từ công trình đầu mối, kênh rạch cho đến các trạm quan trắc. Dữ liệu này nếu được số hóa và kết nối trên một nền tảng thống nhất sẽ giúp ngành chức năng đưa ra quyết định vận hành chính xác, kịp thời hơn.

Để số hóa hệ thống thủy lợi, cần quan tâm nâng cao năng lực cho cán bộ chuyên môn. Ảnh: Kim Anh.

Để số hóa hệ thống thủy lợi, cần quan tâm nâng cao năng lực cho cán bộ chuyên môn. Ảnh: Kim Anh.

Để vận hành hiệu quả, thành phố cũng cần bổ sung nhiều trạm quan trắc nước mặt hơn, nhất là tại những khu vực trọng điểm như hệ thống đê, đê biển và các điểm có nguy cơ sạt lở cao. Việc đầu tư này sẽ giúp dữ liệu được cập nhật tức thời, truyền về trung tâm điều hành, hỗ trợ đưa ra các quyết định nhanh chóng và chính xác.

Bài toán vốn và quy mô công trình

Cải tạo, nâng cấp công trình thủy lợi để tích hợp công nghệ số không chỉ cần kỹ thuật mà còn đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Cần Thơ, hệ thống thủy lợi của thành phố hiện vẫn chưa hoàn chỉnh, nhiều nơi chưa được kiên cố hóa. Để chủ động trong tưới tiêu và phòng chống thiên tai, cần có những công trình quy mô đủ lớn, thay vì đầu tư dàn trải nhiều hạng mục, gây lãng phí.

Trong giai đoạn 2025-2030, TP. Cần Thơ dự kiến phối hợp với Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam rà soát, lập danh mục đầu tư công trung hạn, trong đó ưu tiên các công trình vừa cải tạo, nâng cấp vừa tích hợp công nghệ số. Tuy nhiên, bài toán cân đối vốn vẫn là thách thức lớn khi nhu cầu đầu tư vượt xa khả năng ngân sách địa phương.

Một vấn đề khác là nguồn nhân lực. Hiện nay, đội ngũ cán bộ vận hành thủy lợi của địa phương chủ yếu quen với phương thức thủ công, trong khi các công trình số hóa yêu cầu kỹ năng sử dụng công nghệ hiện đại. Ngành chuyên môn đang chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nhưng để đạt được trình độ đáp ứng yêu cầu, nhất là với các công trình quy mô lớn như cống, âu thuyền, vẫn cần thêm thời gian và nguồn lực.

Đối với các công trình thủy lợi quy mô lớn, việc số hóa cần gắn với con người để vận hành, cảnh báo, điều khiển giao thông thủy, tránh những rủi ro. Ảnh: Kim Anh.

Đối với các công trình thủy lợi quy mô lớn, việc số hóa cần gắn với con người để vận hành, cảnh báo, điều khiển giao thông thủy, tránh những rủi ro. Ảnh: Kim Anh.

Bên cạnh đó, khi chuyển đổi số, thành phố cũng phải đối mặt với nguy cơ an ninh mạng. Các hệ thống dữ liệu, nếu không được bảo vệ chặt chẽ, có thể bị lợi dụng, gây nguy hiểm đến toàn bộ hạ tầng vận hành thủy lợi. Đây là yếu tố đòi hỏi sự đầu tư song song cả về kỹ thuật lẫn pháp lý.

Dù còn nhiều khó khăn, nhưng TP. Cần Thơ đã có định hướng rõ ràng cho quá trình chuyển đổi số. Với sự chỉ đạo của Thành ủy, UBND TP cùng sự phối hợp của các bộ ngành, địa phương đang nỗ lực xây dựng chiến lược đầu tư bài bản, từng bước hoàn thiện hệ thống thủy lợi gắn với công nghệ số.

Trong giai đoạn tới, thành phố sẽ ưu tiên mở rộng mạng lưới quan trắc, cải tạo công trình xuống cấp, xây dựng cơ sở dữ liệu số thống nhất, đồng thời đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách, hợp tác với doanh nghiệp công nghệ và viện nghiên cứu cũng sẽ là giải pháp quan trọng để giảm áp lực tài chính và rút ngắn tiến trình hiện đại hóa.

Xem thêm