Tài nguyên hay rác?
Trao đổi với báo Nông nghiệp và Môi trường, TS. Hoàng Thị Huê – Trưởng Bộ môn Quản lý Tài nguyên thiên nhiên, Khoa Môi trường – Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội – cho biết: theo nghiên cứu do nhà trường thực hiện trong giai đoạn 2022–2024 về nhận thức và hành vi của người dân trong quản lý chất thải sinh hoạt, tỷ lệ chất thải thực phẩm chiếm khoảng 41-60% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt.

Nghiên cứu của Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chỉ ra tỷ lệ chất thải thực phẩm chiếm khoảng 41-60% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt. Ảnh: T-Tech Việt Nam.
Trong khi đó, theo khảo sát của Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tại các đô thị lớn như Hà Nội, chất thải thực phẩm chiếm tỷ lệ áp đảo trong tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt, với hơn 63% đến từ hộ gia đình và lên tới 97% tại một số cơ sở dịch vụ ăn uống.
Theo ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, 1/3 lượng khí nhà kính phát sinh trên toàn cầu có liên quan đến hệ thống lương thực thực phẩm, từ canh tác, chăn nuôi, chế biến, tiêu dùng, thải bỏ… Thất thoát và lãng phí thực phẩm tạo ra 8-10% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, gần gấp 5 lần tổng lượng khí thải từ ngành hàng không.
Nếu được phân loại và tận dụng đúng, nguồn chất thải này có thể trở thành tài nguyên quý giá, phục vụ nhiều ngành khác như sản xuất phân bón hữu cơ, thức ăn chăn nuôi, chế biến năng lượng sinh học, thậm chí là nguyên liệu cho ngành mỹ phẩm, dược phẩm sinh học.
Trên thực tế, nhiều sản phẩm tưởng như bỏ đi như vỏ bưởi, vỏ cam, rau củ hỏng đã được người dân tận dụng để làm tinh dầu, nước tẩy rửa sinh học hay phân bón hữu cơ. Tại một số địa phương như Quảng Ninh, Hải Phòng, Hội Phụ nữ đã triển khai những mô hình thử nghiệm mang lại hiệu quả thiết thực, dễ áp dụng ở cấp hộ gia đình.
“Chất thải thực phẩm thật sự mang lại tiềm năng rất lớn nếu được tái chế đúng cách. Các mô hình hộ gia đình đang chứng minh điều này một cách thiết thực và gần gũi”, TS. Huê nhấn mạnh.
Ở góc độ lớn hơn, ông Hoàng Văn Tú - Giám Đốc Chương trình Đối tác Thực phẩm Bền vững Ireland (IVAP), nhấn mạnh vai trò của việc kết nối liên ngành để đưa lượng rác khổng lồ này quay lại nền kinh tế dưới dạng nguyên liệu đầu vào. Ông cho rằng Việt Nam có thể phát triển chuỗi tái chế từ hộ gia đình đến doanh nghiệp. Ông lấy dẫn chứng mô hình hợp tác với Ireland là một ví dụ điển hình trong chuyển giao công nghệ và đánh giá hành vi tiêu dùng nhằm giảm lãng phí thực phẩm.
Thu hẹp khoảng cách từ luật tới thực tiễn
Từ góc nhìn chính sách, Điều 75 và 79 Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đã quy định việc phân loại chất thải tại nguồn thành ba nhóm: hữu cơ, có thể tái chế và chất thải còn lại. Việc phân loại đúng và chi tiết giúp giảm chi phí dịch vụ xử lý cho các hộ gia đình. Tuy nhiên, theo TS. Huê, khoảng cách giữa luật và thực tiễn vẫn còn lớn, đặc biệt khi 90% chất thải thực phẩm vẫn đang bị xử lý theo phương pháp chôn lấp hoặc đốt.
Các nghị định và thông tư liên quan như Nghị định 08/2022/NĐ-CP (cập nhật theo NĐ 05/2024/NĐ-CP) và Thông tư 02/2022/TT-BTNMT (sửa đổi qua Thông tư 07/2025/TT-BTNMT) đã đưa ra hướng dẫn chi tiết về phân loại rác thải tại nguồn và yêu cầu bố trí phương tiện thu gom riêng biệt cho chất thải thực phẩm. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai đồng bộ từ cấp địa phương.

Nếu được xử lý đúng cách, chất thải thực phẩm có thể là nguồn tài nguyên có nhiều giá trị. Ảnh: T-Tech Việt Nam.
Để những quy định này thực sự đi vào cuộc sống, TS. Huê lưu ý cần có sự đồng bộ từ ba khâu: Phân loại, thu gom – xử lý và giám sát.
“Dù Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đã quy định rõ về phân loại chất thải tại nguồn, nhưng khoảng cách giữa quy định pháp lý và thực tiễn vẫn còn khá lớn. Trên thực tế, đến nay vẫn còn khoảng 90% lượng chất thải thực phẩm bị xử lý theo phương pháp chôn lấp và đốt – những hình thức gây ô nhiễm và lãng phí nguồn tài nguyên hữu cơ có thể tái sử dụng”, TS. Huê chia sẻ.
Bà chỉ ra, khâu đầu tiên trong quy trình xử lý chất thải thực phẩm là thu gom, đây là trách nhiệm của từng hộ gia đình – những người trực tiếp phát sinh chất thải thực phẩm. Phần lớn người dân vẫn chưa nắm vững cách phân loại rác, hoặc chưa hình thành thói quen phân loại đúng cách. Do đó, cần tăng cường truyền thông, phổ biến kiến thức và hướng dẫn cụ thể để người dân có thể chủ động phân loại tại nhà.
Thứ hai, về thu gom và vận chuyển, xử lý chất thải thực phẩm, trách nhiệm thuộc về các công ty môi trường đô thị – đơn vị thực hiện hợp đồng với chính quyền địa phương. Để đảm bảo hiệu quả, các công ty này phải đầu tư phương tiện phù hợp với mô hình phân loại mới. Cụ thể, theo Điều 75 và 79 của Luật Bảo vệ Môi trường 2020, chất thải sinh hoạt phải được phân loại thành ba nhóm: rác hữu cơ (bao gồm chất thải thực phẩm), chất thải có thể tái chế và rác thải còn lại.
Cuối cùng là giám sát. Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong giai đoạn đầu triển khai. TS. Huê cho biết, để người dân hình thành thói quen mới, cần thời gian và giám sát hiệu quả. Bà đề xuất học hỏi kinh nghiệm từ Hàn Quốc, đó là triển khai thống giám sát bằng camera tại đô thị, cụ thể ở chung cư, khu dân cư và cả khu thương mại. Còn tại vùng nông thôn Việt Nam, do có tính cộng đồng rất cao, việc các hộ dân giám sát lẫn nhau hoặc có hình thức nhắc nhở, nêu tên những trường hợp vi phạm sẽ mang lại hiệu quả thiết thực.
Việc chuyển đổi từ một xã hội tiêu dùng sang một xã hội tuần hoàn, nơi rác thải trở thành tài nguyên, đòi hỏi sự thay đổi không chỉ trong hành vi cá nhân mà cả trong hệ thống quản lý, từ chính sách đến hạ tầng. Trong đó, chất thải thực phẩm không phải là gánh nặng nếu được nhìn nhận như một tài nguyên. Nhưng để khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này, Việt Nam cần một chiến lược tổng thể với sự phối hợp chặt chẽ từ nhà nước, doanh nghiệp đến người dân.