Dưới chân núi rừng Thường Xuân, Hồ Cửa Đạt không chỉ là một công trình thủy lợi quy mô lớn mà còn là biểu tượng của ý chí, trí tuệ và nỗ lực vượt khó của con người. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, từ nguyện vọng của người dân xứ Thanh đến những thử thách kỹ thuật khắc nghiệt, hồ Cửa Đạt đã trở thành “trái tim nước” điều tiết đời sống, sản xuất và phát triển bền vững cho cả vùng hạ du.
Nguyện vọng ấp ủ của người dân Thanh Hóa
Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng thượng nguồn sông Chu nguồn tài nguyên nước vô cùng phong phú, quý giá. Từ bao đời, dòng sông này đã trở thành mạch nguồn của người dân xứ Thanh. Nhận thấy tiềm năng đó, ngay từ đầu thế kỷ 20, người Pháp đã chọn sông Chu làm đối tượng nghiên cứu, với dự định xây dựng một công trình thủy lợi có quy mô, nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp và điều tiết nguồn nước cho vùng Nam sông Chu.
Người dân xứ Thanh vẫn còn nhớ, năm 1920, công trình đập dâng Bái Thượng được khởi công và đến năm 1928 chính thức đưa vào khai thác. Công trình này là một bước tiến quan trọng, nhưng chỉ phục vụ tưới cho khoảng 50.000 ha, chưa thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của tỉnh Thanh Hóa về phát triển nông nghiệp, công nghiệp và đời sống nhân dân.
Nhìn nhận thực tế này, nhiều thế hệ lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa đã ấp ủ ý tưởng xây dựng một hồ chứa nước lớn hơn, hiện đại hơn để phục vụ nhu cầu đa mục tiêu: tưới tiêu, chống lũ, phát điện và nâng cao đời sống nhân dân.
Xây dựng hồ chứa nước Cửa Đạt là mong muốn ấp ủ của người dân Thanh Hóa. Ảnh: Thanh Tâm.
Ông Phan Đình Phùng, nguyên Giám đốc Sở Thủy lợi Thanh Hóa, từng chia sẻ rằng mong muốn xây dựng hồ chứa nước Cửa Đạt là nguyện vọng từ rất lâu của người dân tỉnh Thanh Hóa. Thực tế, từ những năm 1970, Nhà nước đã khảo sát và dự kiến xây dựng công trình, nhưng hai cuộc kháng chiến kéo dài và nền kinh tế kiệt quệ khiến dự án chưa thể triển khai.
Sau những năm chiến tranh, đất nước bước vào thời kỳ kiến thiết, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những năm cuối thập niên 1990, thời tiết cực đoan liên tục xảy ra hạn hán, bão lũ và ngập úng khiến nông nghiệp nhiều năm liền thất thu. Ông Phùng nhớ lại mùa mưa lũ năm 1998, mỗi tháng có một cơn bão đổ bộ vào Thanh Hóa, ruộng đồng chìm trong biển nước, đê vỡ, nhiều bản làng tan hoang. Các năm tiếp theo, tình trạng hạn hán kéo dài, nông nghiệp hầu như mất mùa, đặt ra yêu cầu cấp bách cần có một hồ thủy lợi lớn để điều tiết nước, bảo vệ sản xuất và phòng chống thiên tai.
Đập Bái Thượng, công trình quan trọng nhất của Thanh Hóa, xây dựng từ 1920-1928, đã bị hư hỏng nặng sau các cuộc chiến tranh. Nguy cơ vỡ đập trở thành mối lo thường trực, đe dọa cuộc sống của người dân hạ du. Trong bối cảnh đó, hồ chứa nước Cửa Đạt được coi là giải pháp toàn diện, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa chống lũ, vừa cung cấp nước cho sản xuất công nghiệp - nông nghiệp và sinh hoạt.
Ông Phan Đình Phùng - người dốc tâm sức để xây dựng hồ Cửa Đạt. Ảnh: Thanh Tâm.
Năm 1994, khi giữ chức Giám đốc Sở Thủy lợi, ông Phan Đình Phùng đã gửi văn bản đề xuất xây dựng hồ Cửa Đạt tới UBND tỉnh Thanh Hóa. Lúc đó, tỉnh trả lời do ngân sách hạn chế, trình độ kỹ thuật chưa đáp ứng, nên chưa thể thực hiện. Năm 1995, ông Phùng tiếp tục làm việc với Bộ Thủy lợi và được đề xuất cần 500 triệu đồng ngân sách tỉnh để lập dự án tiền khả thi, con số rất lớn vào thời điểm đó.
Sau nhiều nghiên cứu và khảo sát, UBND tỉnh Thanh Hóa quyết định cấp vốn. Ngày 20/1/1998, dự án tiền khả thi được trình báo Bộ Thủy lợi, nhận được sự đồng thuận cao từ lãnh đạo Bộ và tỉnh, mở đường cho quá trình xây dựng một trong những công trình thủy lợi lớn nhất Việt Nam thời điểm đó.
Lựa chọn vị trí, cân nhắc khó khăn và cuộc đại di dân
Ban đầu, dự án dự định xây đập tại hòn đá Mài Mực, cách vị trí hiện nay khoảng 1 km về phía hạ du. Đây là vị trí lý tưởng có địa chất tốt, nền đập bằng đá, tầng phủ mỏng, có thể xây đập bê tông trọng lực với biện pháp dẫn dòng thi công đơn giản. Khúc sông ở đây hẹp, chiều dài đập chưa đến 400 m, thuận tiện cho việc thi công.
Tuy nhiên, phương án này gặp nhiều trở ngại, khối lượng di dân khổng lồ lên tới 20.000 người của 7 xã, mất 2.000 ha đất nông nghiệp, trong khi đất trồng lúa ở các huyện miền núi rất hạn chế. Hơn nữa, di tích Đền Cầm Bá Thước và Bà Chúa Thượng Ngàn là những địa chỉ tâm linh gắn bó với đồng bào sẽ nằm trong lòng hồ.
Chọn vị trí xây dựng hồ Cửa Đạt là một quyết định khó khăn. Ảnh: Thanh Tâm.
Sau cân nhắc kỹ lưỡng, Chính phủ quyết định chọn tuyến III, vị trí đập Cửa Đạt hiện nay, cách đập Bái Thượng 18 km. Dù địa chất phức tạp, kinh phí cao hơn, nhưng lựa chọn này bảo toàn diện tích trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực, và chỉ cần di dời khoảng 10.000 người, phù hợp với lợi ích lâu dài của cộng đồng.
Quá trình di dân hồ Cửa Đạt được xem là “cuộc đại di dân” lớn nhất tỉnh Thanh Hóa với hơn 2.000 hộ, 10.000 nhân khẩu chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái sống lâu đời ở huyện Thường Xuân (cũ). Để vận động, cán bộ từ tỉnh đến huyện, xã phải vào tận bản, từng bước giải thích lợi ích chung, kiểm kê đất đai, hướng dẫn tái định cư.
Ông Phạm Văn Chánh, 68 tuổi, thành viên Hội đồng giải phóng mặt bằng, nhớ lại: “Bất cứ người Việt Nam nào cũng có tâm lý không muốn rời quê hương, xa rời nơi "chôn nhau cắt rốn". Với 2.000 hộ phải di dời, 3 xã bị ‘xóa sổ’, chúng tôi phải kiên nhẫn từng bước, giải thích để họ hiểu việc xây dựng hồ không chỉ cho địa phương mà còn cho cả ngành nông nghiệp, thủy lợi cả tỉnh”.
Ông Chánh đã có những năm tháng "ăn sương ngủ rừng" để vận động người dân di dân. Ảnh: Thanh Tâm.
Có những trường hợp đặc biệt khó khăn, như bà Lê Thị Lộc ở thôn Cửa Đạt, xã Xuân Mỹ. Dù đã nhận tiền đền bù từ năm 1999, bà vẫn âm thầm trở về dựng lều tạm trên đất cũ, buộc chính quyền phải cưỡng chế di dời để đảm bảo an toàn.
Về mặt tâm linh, người Thái kiêng đào mồ mả tổ tiên. Hàng nghìn ngôi mộ buộc phải nằm lại lòng hồ, khiến bà con lưu luyến, không muốn rời đi. Cán bộ dân vận phải vừa kiên trì, vừa hiểu biết về phong tục, tín ngưỡng, để vận động người dân.
Suốt 4 năm, ông Chánh cùng các thành viên ăn sương nằm gió, vừa vận động bà con vừa kiểm kê đất đai. Khi chi trả tiền đền bù, ông phải thuê xe ôm chở từng bao tải tiền vào bản. Xa nhất là xã Xuân Liên, biệt lập, phải gửi xe đạp ở xã Xuân Khao, sau đó trèo vách đá Bù Làu gần 5 giờ mới tới trung tâm xã. Ông Chánh mang theo lương thực để ở lại nhiều ngày.
UBND huyện Thường Xuân còn cử cán bộ khảo sát khu tái định cư trước, rồi về tuyên truyền, vận động bà con.
Sau nhiều năm, hồ Cửa Đạt đã hoàn thành, mang lại nguồn nước ổn định, giúp nông nghiệp phát triển, giảm thiểu lũ lụt và hạn hán. Tuy nhiên, không thể phủ nhận nỗi mất mát của những gia đình phải rời bỏ mảnh đất cha ông để lại. Nhiều người vẫn nhắc về bản cũ, nhớ những con đường, nương rẫy, những ngôi mộ tổ tiên không thể đưa đi. Quá trình di dân dù có sự hỗ trợ về vật chất và tái định cư, vẫn để lại những vết hằn trong tâm trí bà con, nhất là những người lớn tuổi.
Nhìn vào thực tế, những khó khăn, hy sinh của người dân hôm nay đã góp phần bảo vệ an toàn cho hàng vạn người ở hạ du, duy trì sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế vùng. Hồ Cửa Đạt chính là sự cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và giá trị nhân văn.


























