| Hotline: 0983.970.780

Những rào cản trên hành trình đạt phát thải ròng bằng 0

Thứ Năm 16/10/2025 , 06:16 (GMT+7)

Chuyên gia đến từ Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nêu ra 4 rào cản trong quá trình đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam.

Tham gia chương trình tập huấn "Nâng cao năng lực truyền thông báo chí về trung hòa carbon" do Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Tập đoàn TH tổ chức, PGS.TS. Phạm Thị Mai Thảo, Trưởng Bộ môn quản lý môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đưa ra nhận định về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam.

PGS.TS. Phạm Thị Mai Thảo, Trưởng Bộ môn quản lý môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chia sẻ tại buổi tập huấn. Ảnh: Tùng Đinh.

PGS.TS. Phạm Thị Mai Thảo, Trưởng Bộ môn quản lý môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chia sẻ tại buổi tập huấn. Ảnh: Tùng Đinh.

Những cam kết của Việt Nam

Để thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam cam kết đến năm 2030, có thể kiểm soát sự suy thoái của tài nguyên, đảm bảo tối thiểu 42% của độ che phủ rừng, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu để thích ứng với biến đổi khí hậu và có ít nhất 95% dân số được cung cấp nước sạch.

Đến năm 2050, mục tiêu là quản lý tài nguyên hiệu quả, duy trì độ che phủ rừng ở mức 43%, thát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại và 100% dân số được cung cấp nước sạch. Riêng với giảm thiểu phát thải khí nhà kính, mục tiêu đến năm 2030 sẽ giảm 43,5% và đến năm 2050 phát thải ròng sẽ bằng 0.

Tại COP26, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định: "Việt Nam là một nước có lợi thế về năng lượng tái tạo, sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Để đạt được mục tiêu này, các chương trình được ưu tiên là tăng sử dụng năng lượng tái tạo, chuyển đổi hệ thống năng lượng, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, xây dựng bất động sản xanh, đẩy mạnh giao thông công cộng và phương tiện điện, quản lý rừng và nông lâm kết hợp, cải thiện năng suất nông nghiệp, nâng cao năng lực thích ứng biến đổi khí hậu.

Lâm nghiệp là lĩnh vực có thể đóng góp nhiều vào giảm phát thải. Ảnh: Tùng Đinh.

Lâm nghiệp là lĩnh vực có thể đóng góp nhiều vào giảm phát thải. Ảnh: Tùng Đinh.

Liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam cùng 140 quốc gia khác đã thông qua Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất. Theo đó, các quốc gia thống nhất bảo tồn, đẩy nhanh quá trình phục hồi rừng và các hệ sinh thái trên cạn; thúc đẩy sản xuất hàng hóa theo hướng bền vững, không gây mất rừng hay thoái hóa đất.

Cùng với đó, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh các dòng tài chính quốc tế để đảo ngược tình trạng mất và suy thoái rừng, khi 90,94% diện tích rừng toàn cầu nằm trong phạm vi các quốc gia tham gia cam kết. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong nỗ lực kết hợp giữa chính sách, tài chính và hành động thực tiễn nhằm bảo vệ “lá phổi xanh” của hành tinh.

Chính phủ Việt Nam đã triển khai Kế hoạch trồng một tỷ cây xanh đến năm 2025, trong đó 690 triệu cây sẽ được trồng tại khu vực đô thị và nông thôn, còn 310 triệu cây trồng trong các khu rừng bảo vệ. 

Về lĩnh vực năng lượng, Việt Nam chính thức tham gia Quan hệ đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) vào tháng 12/2022. Theo cam kết, Việt Nam sẽ nâng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng sản lượng điện lên ít nhất 47% vào năm 2030 (so với mức kế hoạch khoảng 36%), đồng thời giới hạn công suất điện than ở mức 30,2 GW.

Đáng chú ý, thời điểm đạt đỉnh phát thải của ngành điện cũng được rút ngắn từ khoảng năm 2035 xuống năm 2030, với hạn mức phát thải tối đa 170 triệu tấn CO₂ mỗi năm. Đây được xem là bước ngoặt lớn, thể hiện quyết tâm giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực vốn chiếm tỷ trọng cao trong tổng phát thải quốc gia.

Song hành cùng nỗ lực của Chính phủ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng xác định giảm phát thải là điều kiện sống còn để duy trì lợi thế cạnh tranh và vị thế trên thị trường xuất khẩu. Từ đó, đưa ra các phương án đáp ứng được các yêu cầu của nhà nhập khẩu quốc tế liên quan đến giảm phát thải khi xuất khẩu hàng hóa.

Những rào cản để đến với phát thải ròng bằng 0

Theo PGS.TS. Phạm Thị Mai Thảo, Việt Nam đang phải đối mặt với 4 rào cản chính trong quá trình thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0, đầu tiên là rào cản về thể chế.

Hiện Việt Nam chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh về kinh tế carbon, tín chỉ carbon, đo đếm, báo cáo, thẩm định (MRV). Còn phân tán trong quản lý, thiếu cơ chế khuyến khích tài chính và quy hoạch năng lượng, đất đai, giao thông chưa tích hợp mục tiêu Net Zero, dẫn đến mâu thuẫn khi triển khai.

Tiếp theo là rào cản về tài chính và nguồn lực. Trong đó, chi phí chuyển đổi xanh quá lớn, khó tiếp cận vốn quốc tế, hạn chế trong hạ tầng năng lượng tái tạo và cơ cấu năng lượng phụ thuộc than.

Các nhà báo, phóng viên tham gia buổi tập huấn. Ảnh: Tùng Đinh.

Các nhà báo, phóng viên tham gia buổi tập huấn. Ảnh: Tùng Đinh.

Rào cản thứ 3 là năng lực và công nghệ do thiếu công cụ kiểm kê và quản lý phát thải, chi phí đầu tư công nghệ sạch cao. Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm vừa và nhỏ, vẫn thiếu công cụ kiểm kê và quản lý phát thải, trong khi chi phí đầu tư công nghệ sạch lại quá cao. Cùng với đó, dữ liệu phục vụ báo cáo bền vững còn thiếu, đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực này cũng rất hạn chế.

“Điều này khiến các doanh nghiệp trong nước gặp khó khi ứng phó với các cơ chế quốc tế mới như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU, sáng kiến JETP hay tiêu chuẩn Net Zero trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam hiện cũng chưa có thị trường tín chỉ carbon trong nước để doanh nghiệp có thể bù trừ hoặc giao dịch phát thải,” đại diện Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội phân tích.

Rào cản cuối cùng là năng lực kỹ thuật và giám sát. Trong đó, nổi bật là thiếu hệ thống MRV đáng tin cậy, dữ liệu phát thải phân tán, không đồng nhất giữa các ngành, nguồn nhân lực kỹ thuật hạn chế, đặc biệt ở địa phương, hạn chế các công cụ pháp lý để bắt buộc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải và thiếu ngân sách cho đo đạc và kiểm kê định kỳ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, chất thải.

Bên cạnh đó, năng lực kỹ thuật và giám sát cũng là rào cản đáng kể. Hiện chưa có hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) đủ tin cậy; dữ liệu phát thải còn phân tán, thiếu thống nhất giữa các ngành; nguồn nhân lực kỹ thuật, đặc biệt ở địa phương. Các công cụ pháp lý để bắt buộc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải còn hạn chế, thiếu ngân sách cho đo đạc và kiểm kê định kỳ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, chất thải.

Trước thực tế này, PGS.TS Phạm Thị Mai Thảo cho rằng báo chí cần phát huy vai trò truyền thông, nâng cao nhận thức xã hội, đồng thời làm tốt chức năng giám sát, phản biện chính sách và định hướng thay đổi hành vi. Bà cũng nhấn mạnh, báo chí cần trở thành cầu nối thúc đẩy hợp tác giữa các bên, đồng thời chính các nhà báo môi trường cũng phải được trang bị thêm kiến thức và kỹ năng chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu mới.

Xem thêm
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV: Phát huy trí tuệ, ý Đảng hợp lòng dân

Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương công bố Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, phát huy trí tuệ Nhân dân, củng cố niềm tin, ý Đảng hợp lòng dân.

Tháo gỡ điểm nghẽn lĩnh vực nông nghiệp và môi trường tại Khánh Hòa

Đoàn công tác của Bộ NN-MT đã kịp thời giải đáp các vướng mắc trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp tại tỉnh Khánh Hòa.