Có những nỗi nhớ chẳng mang tên cầu kỳ, cứ thế ùa về mỗi khi ngọn gió chướng se lạnh lùa qua mấy vạt đồng. Nỗi nhớ nhuốm mùi ngai ngái của đất hoang sau nhà, mang theo tiếng xào xạc thân quen của lá, khắc khoải hình bóng má chồng lom khom bên bờ kinh chiều quê lặng gió.
Trong tâm khảm tôi, hình dáng tảo tần ấy luôn gắn với bồn bồn, loài cây không chỉ là món ăn dân dã, mà còn là hồn của cả một miền đất, là sợi tơ lòng nối tôi với thời thơ ấu của má qua bao mùa nước nổi.
Bồn bồn - "sợi tơ lòng" nối tôi với thời thơ ấu của má. Ảnh: Quỳnh Trần.
Cây bồn bồn mộc mạc, khiêm nhường như chính tánh tình người dân miệt Hậu Giang. Nó là thứ cỏ dại chẳng cần ai săn sóc, cứ thế cắm rễ, vươn lên mạnh mẽ từ lớp bùn non. Nhà ai rộng đất thì be bờ trồng thành từng vạt, nhà nuôi tôm thì trồng xen canh dưới ao để có thêm đồng ra đồng vô. Người dân quê thương cái tính hào phóng của cây, nhưng để nhận được lộc trời ấy, họ phải đánh đổi bằng biết bao giọt mồ hôi.
Công việc nhổ bồn bồn thường phải bắt đầu từ lúc gà chưa gáy, khi cả xóm còn chìm trong giấc ngủ sâu, chừng một, hai giờ khuya. Phải dầm mình dưới làn nước lạnh như cắt, mò mẫm trong bóng tối để nhổ từng bụi. Đặc tính của bồn bồn là vậy: hễ mặt trời lên hay trời đã tỏ, thân cây sẽ mau xanh, lóng già đi, phần lõi non ngọt cũng vì thế mà hao hụt.
Từng bó bồn bồn tươi sau khi chặt bỏ bớt lá được gánh về nhà. Lúc này, cả nhà lại quây quần, từ người lớn đến con nít xắn tay vào lột bỏ từng lớp bẹ già bên ngoài để lấy phần lõi trắng tinh, giòn rụm. Công việc cuốn hút thấy lạ, ngay cả khách đến chơi cũng sẵn lòng ngồi xuống phụ tay, vừa làm vừa rổn rảng dăm ba câu chuyện. Những lớp bẹ già cũng không hề bỏ phí, bà con đem phơi khô làm phân bón, trả lại cho đất những gì đã nhận về.
Phần non tơ, trắng ngần ấy chế biến được thành vô vàn món ngon. Nó có thể là dĩa gỏi tôm thịt giòn sần sật, là món xào đậm đà hao cơm, hay đơn giản là nhúng lẩu. Nhưng có lẽ, món ăn khắc sâu trong trí nhớ và gây thương nhớ nhất chính là hũ dưa bồn bồn má chồng hay làm. Cách má muối dưa thiệt là giản dị. Má chắt lấy nước vo gạo, thêm chút muối hột, chút đường cát rồi bắc lên bếp đun sôi, chờ cho nước nguội hẳn.
Bồn bồn chẻ đôi, ngâm sơ qua nước muối giấm cho thiệt trắng và giòn rồi xếp ngay ngắn vô hũ. Má nhẹ nhàng đổ thứ nước gạo đùng đục đã ngả màu vào, đậy kín nắp. Chỉ dăm ba hôm sau là có được một hũ dưa chua thanh mát, cắn một miếng nghe giòn tan trong miệng. Vị chua dịu của dưa bồn bồn không chỉ là hương vị của món ăn, mà còn là mùi vị của sự tảo tần, của tình thương má gói ghém.
Bồn bồn muối chua được biến tấu với tỏi ớt giúp món ăn thêm hấp dẫn. Ảnh: Sông Hương Foods.
Có lần phụ má làm dưa, tôi được nghe những câu chuyện xa xăm, má kể: “Hồi xưa, bồn bồn là của trời cho, nó mọc đầy khắp mấy cái đồng trũng. Mùa nước nổi về là tha hồ mà nhổ, ăn hổng hết thì đem làm dưa để dành. Mà rồi chiến tranh, ruộng đồng hoang hóa, cây bồn bồn cũng vắng bóng một thời gian dài. Giờ thì khác rồi, phải trồng mới có ăn. Nhưng cũng nhờ nó mà mình sống được đó con. Một buổi đi nhổ cũng kiếm được trăm, hai trăm ngàn, đủ lo tiền chợ búa. Tính ra, nó cho thu nhập cao gấp năm lần trồng lúa đó nha".
Lời của má khiến tôi chợt nhận ra bồn bồn không chỉ là một loài cỏ dại. Nó là chứng nhân của thời gian, của những thăng trầm trên mảnh đất này. Nó đã từng là lộc của thiên nhiên ban tặng, rồi biến mất, và giờ đây lại hồi sinh nhờ sự cần lao của người dân, trở thành cái neo kinh tế vững vàng cho biết bao nhiêu gia đình.
Để rồi mỗi lần nhìn thấy bồn bồn, tôi không chỉ thấy một món ăn. Tôi thấy cả một dòng chảy ký ức đong đầy. Đó là dáng hình tảo tần của má, là tiếng cười nói rổn rảng trong mấy buổi chiều sum vầy, là sức sống mãnh liệt, bền bỉ của quê hương. Bồn bồn dẫu giản đơn, vẫn mãi là một phần hồn cốt của miệt vườn, là nỗi nhớ ngọt lành tôi luôn mang theo trong tim.























