| Hotline: 0983.970.780

Người 'xé rào' cho nông nghiệp Đất Cảng: [Bài 1] 'Khoán chui' vì ruộng 'khóc', dân đói

Chủ Nhật 09/11/2025 , 16:36 (GMT+7)

Ông Phạm Hồng Thưởng - người tiên phong khoán sản phẩm tại Đoàn Xá, Hải Phòng - là một trong những người tạo tiền đề để hình thành các chính sách cởi trói cho sản xuất nông nghiệp.

Đau đáu khi đồng ruộng “khóc”, nông dân làm không đủ no

Hải Phòng những ngày cuối năm 2025, khi cuộc "cách mạng" sắp xếp đơn vị hành chính và vận hành chính quyền 2 cấp đã bước đầu vận hành trơn tru, đã mang lại những thay đổi rất tích cực cho sự phát triển cũng là lúc những người công tác trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường cả nước đang hướng về Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam (1945-2025).

Ông Phạm Hồng Thưởng năm nay đã gần 80 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, ánh mắt tinh anh. Ảnh: Đinh Mười.

Ông Phạm Hồng Thưởng năm nay đã gần 80 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, ánh mắt tinh anh. Ảnh: Đinh Mười.

Trong dòng chảy của ký ức về 80 năm ngành nông nghiệp, câu chuyện về ông Phạm Hồng Thưởng, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Đoàn Xá, huyện An Thụy (nay là xã Kiến Hưng, TP Hải Phòng) là một lát cắt chân thực của lịch sử.

Ông Thưởng, dù đã gần 80 tuổi, vẫn minh mẫn với ánh mắt tinh anh khi kể lại một thời kỳ gian khó. Dáng người nhỏ, gầy, đôi bàn tay gân guốc chai sần như một minh chứng cho cả một đời gắn bó với đồng ruộng.

“Với hơn 7.000 khẩu trong xã, vụ chiêm năm 1977 chỉ thu được ngót nghét 180 tấn thóc, mỗi người chỉ nhận 30 kg thóc cho cả mấy tháng trời", ông Thưởng nhớ lại. 

Ông Thưởng tiếp chúng tôi khi đã gần trưa, và câu chuyện ông kể, không chỉ là ký ức của riêng ông, mà là một lát cắt chân thực của cả một giai đoạn lịch sử, một câu chuyện về hành trình “xé rào” để tìm ra con đường phát triển cho cây lúa và người nông dân.

“Trước tháng Tám năm 1976…” - giọng ông Thưởng trầm lại, đưa chúng tôi ngược dòng thời gian về một thời kỳ mà đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc, gian khổ và thiếu thốn trăm bề, đồng thời đang nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội theo Nghị quyết số 03-NQ/TW và Nghị quyết số 289-CP của Hội đồng Chính phủ, với mục tiêu tận dụng tối đa tiềm lực lao động và đất đai.

Ngày ấy, Đoàn Xá cũng như bao làng quê khác ở miền Bắc, đang thực hiện cơ chế quản lý tập trung, bao cấp. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là đưa các hợp tác xã (HTX) quy mô thôn, xóm nhỏ lẻ hợp nhất lại thành HTX quy mô toàn xã, với mục tiêu tập trung được sức mạnh, phát triển sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Về chủ trương, đây là một định hướng đúng đắn, thể hiện mong muốn xây dựng nền nông nghiệp hiện đại.

Sản xuất nông nghiệp giai đoạn trước khi thực hiện khoán sản phẩm tại Hải Phòng có lúc phát triển trì trệ, năng suất thấp. Ảnh: Tư liệu.

Sản xuất nông nghiệp giai đoạn trước khi thực hiện khoán sản phẩm tại Hải Phòng có lúc phát triển trì trệ, năng suất thấp. Ảnh: Tư liệu.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, mô hình này đã bộc lộ những hạn chế, đặc biệt là trong việc khơi dậy động lực sản xuất của người nông dân. Ông Thưởng kể, thời điểm đó, tại HTX Đoàn Xá, người nông dân ra đồng không phải vì mảnh ruộng của mình, mà vì tiếng kẻng của đội sản xuất. Họ làm việc quần quật từ sáng sớm đến tối mịt, nhưng thành quả lao động lại được chia theo “công điểm”, một thước đo mang tính cào bằng, chưa thực sự gắn với hiệu quả lao động cá nhân.

“Cha chung không ai khóc” - quy luật nghiệt ngã ấy đã làm thui chột động lực của người nông dân. Khi người làm hăng hái cũng chỉ bằng người đủng đỉnh, người chăm bón, vun xới cũng chẳng hơn người chỉ vung tay cho có lệ. Kết quả là, cây lúa trên đồng cứ còi cọc dần. Năng suất lúa của cả xã chỉ lẹt đẹt ở mức 25-30 tạ/ha.

Con số ấy như một nhát dao cứa vào lòng ông Phạm Hồng Thưởng. 30 kg thóc cho 6 tháng trời ròng rã bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Nó không đủ để người ta sống, nó chỉ đủ để người ta tồn tại lay lắt. Cái đói, nó không còn là nguy cơ, mà là một hiện thực tàn nhẫn, hiện hữu trong từng bữa ăn, trong từng ánh mắt trẻ thơ.

Và rồi, điều tất yếu đã đến. Người nông dân, những người yêu đất, quý ruộng hơn cả sinh mệnh mình, đã phải làm một việc đau đớn nhất là bỏ ruộng hoang với gần 50% diện tích. Cả một cánh đồng rộng lớn, thay vì màu xanh của mạ non, màu vàng của lúa chín, lại là màu úa vàng của cỏ dại. Người nông dân bỏ làng, bỏ xã, tha hương cầu thực, đi “chạy chợ”, làm đủ thứ nghề để mong có cái bỏ vào bụng.

Đất đai, tư liệu sản xuất quý giá nhất, chết dần, chết mòn. Và chính ông Thưởng cũng bị xã viên coi thường ra mặt, gọi với biệt danh là Chủ nhiệm HTX Khoai lang. Nhìn những cánh đồng hoang, lòng người cán bộ trẻ Phạm Hồng Thưởng, người lính vừa từ chiến trường trở về, đau như cắt. “Mình làm cán bộ mà để người dân như vậy thì liệu còn xứng đáng không?” - lời dạy từ quân ngũ “sống với dân không để dân đói” thôi thúc ông phải tìm lối ra.

Quyết định dũng cảm của người cán bộ vì dân

Năm 1977, người lính trẻ Phạm Hồng Thưởng sau khi rời quân ngũ, mang trong mình nhiệt huyết của người lính Cụ Hồ và tình yêu máu thịt với quê hương, được bà con tín nhiệm bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy, kiêm Chủ nhiệm HTX.

Ông Phạm Hồng Thưởng say sưa ôn lại kỷ niệm cách đây gần nửa thế kỷ. Ảnh: Đinh Mười.

Ông Phạm Hồng Thưởng say sưa ôn lại kỷ niệm cách đây gần nửa thế kỷ. Ảnh: Đinh Mười.

Ông là người trẻ nhất trong Ban Thường vụ Đảng ủy xã, lúc bấy giờ phải đứng trước một bài toán nan giải. Một bên là chủ trương, chính sách đang tồn tại, yêu cầu giữ vững mô hình tập thể. Một bên là hiện thực phũ phàng: dân đói, đồng ruộng bỏ hoang ngày càng nhiều, đòi hỏi một sự thay đổi cấp bách.

Sức ép từ hai phía đè nặng lên vai khi cấp trên thì yêu cầu phải giữ vững mô hình tập thể, phải đưa HTX đi lên theo đúng định hướng. Cấp dưới, những người nông dân, thì thờ ơ, chán nản. Họ không còn tin vào tiếng kẻng tập trung nữa, khiến người cán bộ cách mạng trải qua nhiều đêm liền giằng xé trong lòng. “Lúc đó quả thực đúng như câu nói trên thì đe, dưới thì búa”, ông Thưởng chia sẻ.

Những đêm dài trăn trở, những cuộc họp của Đảng ủy, của Ban chủ nhiệm HTX kéo dài đến tận khuya. Họ tranh luận, phân tích, tìm lối ra. Giữ nguyên cơ chế cũ thì chắc chắn sẽ lâm vào bế tắc. Nhưng thay đổi, mạnh dạn thử nghiệm những cách làm mới thì là một sự mạo hiểm khôn lường. “Làm sai nguyên tắc, không tuân thủ quy định lúc đó có thể bị coi là có tội với Đảng”, ông Thưởng tâm sự.

Chúng tôi có thể mường tượng ra không khí của những cuộc họp lịch sử ấy. Dưới ánh đèn dầu leo lét, những gương mặt khắc khổ, lo âu của những người cán bộ xã. Họ là những người nông dân mặc áo lính, những người lính trở về làm nông dân. Họ không được đào tạo bài bản về kinh tế, nhưng họ có sự thấu hiểu sâu sắc và tình thương yêu vô bờ bến đối với nhân dân của mình.

Và rồi, một quyết định đã được đưa ra vào ngày 10/6/1977, thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của nhân dân. Ông Thưởng cùng 4 cán bộ, đảng viên chủ chốt trong Thường vụ Đảng ủy xã gồm ông Phạm Văn Điệng - Bí thư Đảng ủy xã, ông Đỗ Văn Ảo - Chủ tịch UBND xã, ông  Đăng Kim Đé - Phó Chủ tịch UBND xã và bà Nguyễn Thị Choạng - Thường trực Đảng ủy xã đã họp bàn và quyết định mạnh dạn triển khai hình thức “khoán tăng sản” tới hộ gia đình. Cách làm mà sau này được lịch sử ghi nhận là một trong những khởi nguồn quan trọng của công cuộc Đổi mới.

Giờ đây, tuy tuổi cao, sức yếu nhưng hằng ngày ông Phạm Hồng Thưởng vẫn cập nhật thông tin thời sự của đất nước, của ngành nông nghiệp và luôn đau đáu với đồng ruộng, cây lúa. Ảnh: Đinh Mười.

Giờ đây, tuy tuổi cao, sức yếu nhưng hằng ngày ông Phạm Hồng Thưởng vẫn cập nhật thông tin thời sự của đất nước, của ngành nông nghiệp và luôn đau đáu với đồng ruộng, cây lúa. Ảnh: Đinh Mười.

Ban đầu, với danh nghĩa “khoán tăng sản”, chủ trương được thí điểm trên ruộng rau xanh, hợp tác xã khoán mỗi sào 70kg thóc, phần vượt năng suất thuộc về hộ gia đình. Ngay lập tức, có đến 1.800 hộ xin nhận phần đất khoán. Mặc dù trên bề mặt là “bí mật” và phải đối phó với những kiểm tra, nhưng diện tích khoán cứ thế mở rộng. Đến năm 1978, hợp tác xã nhất trí nâng diện tích khoán lên 1 sào/hộ gia đình, với tổng số 180 mẫu ruộng giao khoán. Từ 10% diện tích khoán ban đầu, đến cuối năm 1979 xã đã tăng tỷ lệ phần khoán tới 50%.

Đó không phải là một văn bản, một nghị quyết được đóng dấu đỏ công khai ngay lập tức. Đó là một sự “thỏa thuận nội bộ”, một cam kết bằng danh dự giữa những người cán bộ và xã viên, xuất phát từ thực tiễn bức thiết. Họ sẽ giao lại ruộng đất cho từng hộ gia đình. Các khâu làm đất, thủy lợi, giống, bảo vệ thực vật vẫn do HTX đảm nhiệm để giữ vững định hướng tập thể.

Còn lại, từ cấy, chăm sóc đến thu hoạch, người nông dân được toàn quyền chủ động. Sản phẩm làm ra, sau khi nộp đủ sản lượng khoán cho HTX theo quy định, phần còn lại là của họ. “Ai làm tốt thì hưởng tốt, ai lười không chịu làm thì chịu đói. Nguyên tắc công bằng, gắn trách nhiệm với lợi ích đã dần được khôi phục”.

Đó là một cú đánh cược. Ông Thưởng và các đồng chí của mình đã đặt cả tương lai chính trị, cả sự nghiệp của mình lên bàn cờ. Một cán bộ huyện, khi nghe phong thanh chuyện này, đã gặp riêng ông và cảnh báo: Ông cũng chia sẻ, đi họp trên huyện là chẳng ai dám ngồi bàn trên vì sợ bị phát hiện và kỷ luật. “Các anh làm thế là đi ngược lại chủ trương lúc đó của Đảng đấy. Coi chừng, vướng cọng rơm mà chết”. 

“Vướng cọng rơm mà chết” - câu nói ấy ám ảnh ông Thưởng mãi đến tận hôm nay. Nhưng rồi, khi nhìn vào những đứa trẻ đói ăn, những người già thiếu gạo, ông lại tự nhủ: “Mình phải vì dân mà làm. Dân có no thì Đảng mới mạnh. Cùng lắm thì bị kỷ luật, bị cách chức, nhưng dân mình được no bụng”. Cái tâm trong sáng, lòng dũng cảm của người lính và ý chí sắt đá vì nhân dân đã giúp ông vượt qua nỗi sợ hãi. Họ đã mạnh dạn triển khai chủ trương “khoán sản phẩm”, bắt đầu từ vụ mùa năm 1977.

Ngay sau khi có chủ trương “khoán sản phẩm”, không khí ở Đoàn Xá thay đổi hẳn. Không còn tiếng kẻng thúc giục, không còn cảnh người ta uể oải ra đồng. Thay vào đó là một không khí lao động hăng say, tự giác. Những mảnh ruộng bỏ hoang bấy lâu nay được cày xới, phủ một màu xanh của mạ non. Người ta thấy cả những cụ già, những em nhỏ cũng tíu tít ngoài đồng, nhổ cỏ, bắt sâu. Có hộ còn đốt đèn nhổ mạ ban đêm để cấy cho kịp thời vụ, đó là điều mà trước đây chưa từng thấy.

Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chuỗi sự kiện kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12/2025. Trong đó, trọng tâm là lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, tổ chức sáng 12/11/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hơn 1.200 đại biểu tham dự. Báo Nông nghiệp và Môi trường sẽ truyền hình trực tiếp sự kiện này.

Xem thêm
Công nghệ thông minh nâng tầm chăn nuôi gà đẻ trứng

Ứng dụng công nghệ cao giúp Delco đạt tỷ lệ đẻ 95%, trứng sạch, bảo quản lâu, hướng tới chuẩn xuất khẩu.

Đắk Lắk yêu cầu tiêm vaccine cúm gia cầm đạt trên 80% tổng đàn

UBND tỉnh Đắk Lắk yêu cầu các sở, ban, ngành, địa phương và đơn vị liên quan khẩn trương thực hiện các nội dung nhằm chủ động ngăn chặn các ổ dịch cúm gia cầm.

Vườn lan 24 ha giữa vùng 'đất thép’

TP.HCM Với tổng diện tích lên đến 24ha, đây được coi là một trong những vườn lan lớn nhất, được đầu tư bài bản, hiện đại nhất cả nước tính đến thời điểm này.

'Lá chắn' bảo vệ nông dân

Khi biến đổi khí hậu khiến nông nghiệp ngày càng mong manh, Hàn Quốc đã xây dựng được 'lá chắn' bảo vệ nông dân khỏi rủi ro thiên tai.

Bứt phá kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn xanh trong kỷ nguyên mới

Ngành Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đang đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ để trở thành trụ cột thúc đẩy nông nghiệp xanh, nông thôn hiện đại...

Chuyển từ bị động sang chủ động phòng ngừa thiên tai

Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư, tư duy ứng phó thiên tai ở Việt Nam đã có bước chuyển rõ rệt từ bị động sang chủ động phòng ngừa.

Các cảng cá hoang tàn sau bão

Gia Lai Bão số 13 với sức gió kinh khủng đã khiến hạ tầng các cảng cá ở Gia Lai thiệt hại nặng, các đơn vị đang nỗ lực khắc phục để tái hoạt động.

Lan tỏa nhận thức pháp luật lâm nghiệp đến giới trẻ

Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm vừa tổ chức hội thảo nâng cao nhận thức, phổ biến pháp luật lâm nghiệp tại phường Minh Xuân, tỉnh Tuyên Quang,