| Hotline: 0983.970.780

Nghề mây tre đan làng Phú Vinh đang 'thừa đầu bạc, thiếu đầu xanh'

Thứ Tư 10/12/2025 , 10:49 (GMT+7)

Vào bất kỳ một xưởng mây tre đan nào trong làng Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, TP Hà Nội) đều thấy chủ yếu là người trung tuổi và người già, rất ít thanh niên.

Làng Phú Vinh xưa có tên Phú Hoa Trang có nghĩa là trời phú cho dân có bàn tay khéo léo bởi sở hữu nhiều lối đan nhất. Ngoài lối đan chung giống như mọi làng nghề khác như nong mốt, nong hai, nong ba, người dân Phú Vinh còn có kiểu bỏ lỗi các lóng để tạo thành hoa văn, tranh ảnh, phong cảnh, chân dung rất sinh động.

Thời phong kiến, vua Thành Thái từng phong sắc cho 9 nghệ nhân của làng. Thời đổi mới, thợ giỏi của làng, ông Nguyễn Văn Khiếu là 1 trong 9 nghệ nhân đầu tiên được phong tặng đợt đầu ở miền Bắc. Hiện làng Phú Vinh có 700-800 hộ làm nghề mây tre đan, sản phẩm nhận được vô số giấy khen, huy chương đủ loại ở các kỳ triển lãm, hội chợ.

Trong các nghệ nhân ở làng, nổi tiếng nhất là ông Nguyễn Văn Tĩnh và ông Trần Văn Khá. Nhiều sản phẩm họ làm có giá bán tới hàng triệu đồng. Lồng bàn là sản phẩm tiêu biểu. Qua bàn tay của các nghệ nhân, mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, được định giá tới vài chục triệu đồng. Sở dĩ chúng có giá cao như vậy bởi vật liệu được tuyển chọn, xử lý kỹ lưỡng và thời gian để làm ra mỗi chiếc ít cũng 15-20 ngày, lắm khi kéo dài đến cả tháng.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh bên chiếc lồng bàn trị giá hàng chục triệu. Ảnh: Đinh Thanh Huyền.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh bên chiếc lồng bàn trị giá hàng chục triệu. Ảnh: Đinh Thanh Huyền.

Cùng là lồng bàn nghệ thuật nhưng lại có hình dáng, màu sắc, hoa văn rất đa dạng, mang đậm dấu ấn sáng tạo cá nhân của mỗi người. Lồng bàn nhà ông Tĩnh sợi mây to hơn, chắc chắn hơn, màu sắc đậm hơn, còn lồng bàn nhà ông Khá sợi mây nhỏ, mịn, màu sắc nhạt hơn, mỏng nhẹ, thanh thoát hơn.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh cho biết, trước đây người làng thường làm lồng bàn kiểu lồng bàn đen - trắng rất tốn công, có người đan 5 loại hoa văn, có người đan 7 loại hoa văn, thậm chí có người đan tới 10 loại hoa văn. Nguyên liệu để làm lồng bàn kiểu này được xử lý kỹ lưỡng bằng cách hun khói. Giờ, để đáp ứng thị hiếu của thị trường, mọi người chuyển sang loại lồng bàn có màu hanh vàng, loại hàng thường có giá bán dao động từ 7-10 triệu đồng, loại hàng cao cấp giá bán lên tới 25 triệu đồng.

Để hợp lý hóa quá trình sản xuất, ông Tĩnh đã chia nhỏ công đoạn làm nghề cho nhiều người trong xưởng của mình dựa trên thế mạnh của mỗi người, còn mình trở thành tổng chỉ huy, hướng dẫn họ đan kiểu này, đan kiểu kia rồi cuối cùng ghép lại thành một sản phẩm mang đầy tính nghệ thuật: “Đa số lồng bàn của tôi bán không dùng để đậy thức ăn mà để cất vào tủ kính, sưu tầm”. Ông Tĩnh cười giới thiệu với tôi như vậy.

Ngoài các xưởng mang tính chất hộ nông nhàn, tận dụng thời gian rảnh rỗi để làm nghề, hiện nay làng còn hình thành mấy chục doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất và kinh doanh các mặt hàng mây tre đan chuyên nghiệp. Có những cơ sở rộng hàng ngàn m2, thu hút hàng trăm lao động trực tiếp thường xuyên và nhiều lao động thời vụ, làm gia công theo đặt hàng tại các hộ gia đình ở trong và ngoài làng. Sản phẩm làm ra được xuất đi các thị trường khó tính như: Mỹ, Châu Âu, Úc…

Có rất ít người trẻ làm nghề ở làng Phú Vinh. Ảnh: Đinh Thanh Huyền.

Có rất ít người trẻ làm nghề ở làng Phú Vinh. Ảnh: Đinh Thanh Huyền.

Thu nhập của người thợ trong làng hiện vẫn khá hạn chế. Những nghệ nhân như ông Nguyễn Văn Tĩnh, Trần Văn Khá dù bán được tới 20-30 triệu đồng/ sản phẩm, nhưng tính chi li ra, ngày công cũng không quá 300.000đ. Những thợ trẻ hơn, ngày công chỉ 150-200.000đ, khá thấp so với các công việc khác. Thêm vào đó, việc học nghề thủ công mỹ nghệ rất tốn thời gian, có người phải mất đến vài năm mới thành thục. Lại có trường hợp dù đã thạo nghề, thấy chỗ khác, việc khác thu nhập cao hơn lại bỏ nghề, khiến cho các chủ xưởng, nghệ nhân phải đỏ mắt kiếm người thay thế.

Như vợ chồng ông Khá đều ở tuổi trên 70, nhưng vẫn ngày ngày lọ mọ, cần mẫn bám trụ với nghề. Dù thế, cả 5 người con và 21 cháu, chắt của ông bà không ai chịu nối nghiệ bởi nghề này vừa vất vả, thu nhập lại không cao.

Đó là cái khó chung của hàng trăm làng nghề tiểu thủ công mỹ nghệ không chỉ ở Hà Nội mà khắp cả nước. 

Ông Tĩnh bày tỏ: Những nghệ nhân già như tôi chỉ mong làng mình có lớp trẻ nối nghiệp cha ông và có thể sống tốt bằng nghề. Muốn vậy, Nhà nước phải có những chính sách khuyến khích thanh, thiếu niên ở các làng nghề bảo tồn nghề truyền thống bằng cách đào tạo, cho vay vốn mở xưởng cũng như hỗ trợ quảng bá, giới thiệu sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó là phát triển nghề theo hướng đa giá trị, ngoài sản xuất, thương mại, cần phát triển thêm loại hình thêm du lịch trải nghiệm. Mục đích chính của những việc này cũng để làm cho thu nhập của cư dân làng nghề tăng lên, có như thế mới giữ chân được giới trẻ chuyên tâm với nghề truyền thống.

Xem thêm
9 địa phương được yêu cầu thiết kế và công bố mẫu nhà chống bão, lũ

Các mẫu thiết kế phải đảm bảo về diện tích, chất lượng, phòng, chống bão, lụt và có chiều cao hợp lý, đảm bảo an toàn cho người dân.

Có một làng Phố Hiến ở Tây Nguyên

Phạm Thị Thỏa nói, người Phố Hiến ở xã Ia Lâu ai cũng chịu khó làm ăn, lại được Nhà nước chăm lo, do vậy làng Phố Hiến ở đây có không ít người giàu.

Bình luận mới nhất

Nghề mây tre đan làng Phú Vinh đang 'thừa đầu bạc, thiếu đầu xanh'
Xã hội 6 giây trước