
Yên Bái hiện có hơn 360 công trình nước sạch tập trung. Ảnh: Thanh Tiến.
Nước sạch và vệ sinh môi trường là một trong những yếu tố nền tảng, quyết định chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững, đặc biệt tại các khu vực nông thôn, miền núi. Tại Yên Bái, một tỉnh với địa hình phức tạp, dân cư phân tán, việc nâng cao tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận với nước sạch đạt quy chuẩn là một bài toán đầy thách thức nhưng cũng thể hiện quyết tâm lớn của cả hệ thống chính trị.
Toàn tỉnh có trên 360 công trình nước sạch tập trung
Theo số liệu thống kê của Sở NN-MT tỉnh Yên Bái, toàn tỉnh hiện có 362 công trình nước sạch tập trung. Đa phần trong số này là các công trình cấp nước tự chảy, khai thác nguồn từ khe, suối tự nhiên. Về mô hình quản lý, chỉ có 6 công trình do đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp tư nhân quản lý, phần lớn công trình nhỏ còn lại được giao cho các địa phương trực tiếp vận hành.
Đến hết năm 2024, tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh trên toàn tỉnh đạt 96%. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn quốc gia mới chỉ 17%. Mục tiêu đặt ra cho năm 2025 là nâng tỷ lệ nước hợp vệ sinh lên 98% và nước sạch đạt quy chuẩn đạt 20%.
Trong những năm qua, nguồn vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội, thông qua Quyết định số 62 của Thủ tướng Chính phủ, đã trở thành điểm tựa cho nhiều hộ dân tiếp cận với các công trình nước sạch cá nhân. Mỗi hộ dân được vay tối đa 10 triệu đồng cho một công trình, 20 triệu đồng cho 2 công trình nước sạch và vệ sinh.

Đến hết năm 2024, 96% người dân Yên Bái được sử dụng nước hợp vệ sinh. Ảnh: Thanh Tiến.
Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có gần 113.000 công trình cấp nước hộ gia đình, trong đó giếng đào, giếng khoan chiếm khoảng 80%, còn lại là các loại téc, bể chứa. Chương trình này đã góp phần thiết thực bảo đảm sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và là một điểm sáng trong thực hiện tiêu chí môi trường trong thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Tiếp nối đà đó, trong năm 2025, Ngân hàng Chính sách xã hội dự kiến sẽ tiếp tục hỗ trợ khoảng 2.300 hộ dân trong tỉnh vay vốn để xây dựng các công trình nhỏ lẻ và lắp đặt thiết bị lọc nước hộ gia đình. Đây là giải pháp quan trọng góp phần hiện thực hóa mục tiêu tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch đạt quy chuẩn đã đề ra.
Thách thức từ những công trình nước sạch nhỏ lẻ
Ông Trần Anh Văn, Phó Trưởng phòng Thủy lợi (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái) chia sẻ, dù đạt được những bước tiến nhất định, công tác cấp nước sạch nông thôn tại Yên Bái vẫn đối mặt với vô vàn khó khăn. Đa số công trình cấp nước tập trung trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ, chủ yếu là tự chảy, phạm vi cấp nước chỉ giới hạn trong một vài thôn, bản. Các công trình này do Nhà nước đầu tư và hiện chủ yếu giao UBND cấp xã quản lý, vận hành với mục tiêu chính là đảm bảo an sinh xã hội. Do đó, giá bán nước rất thấp, thu không đủ chi.

Đa số các công trình nước sạch ở vùng cao là công trình nhỏ lẻ, lấy nước từ khe, suối. Ảnh: Thanh Tiến.
Việc thực hiện thử nghiệm chất lượng nước theo quy định tại Thông tư số 41/2018 của Bộ Y tế gặp rất nhiều khó khăn, hầu như không thực hiện được do không đủ kinh phí. Bên cạnh đó, một số công trình được xây dựng từ rất lâu, công nghệ xử lý đơn giản nên chỉ có thể đáp ứng các quy chuẩn về nước sinh hoạt của giai đoạn trước, khó đạt được các tiêu chuẩn khắt khe hơn hiện nay.
Một vướng mắc lớn khác là tỉnh Yên Bái chưa có cơ chế, chính sách cụ thể về giá tiêu thụ nước sinh hoạt nông thôn. Nếu áp dụng theo Thông tư số 44/2021 của Bộ Tài chính, tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí và có lợi nhuận, giá nước tại các công trình nước sạch nông thôn ở Yên Bái sẽ rất cao, không phù hợp với thực tế thu nhập của đại bộ phận người dân vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi mức sống còn thấp, dân cư thưa thớt, điều kiện kinh tế khó khăn.

Việc xây dựng các công trình nước sạch ở vùng cao có chi phí lớn, số hộ dân hưởng thụ lại ít. Ảnh: Thanh Tiến.
Ngoài ra, đặc thù địa hình vùng cao, dân cư không tập trung khiến chi phí lớn khi đầu tư xây dựng các công trình cấp nước phân tán, hiệu quả đầu tư không cao. Công tác quản lý, vận hành và khai thác cũng vì thế mà gặp nhiều trở ngại, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, nhất là lũ quét và sạt lở đất, gây hư hỏng công trình và gián đoạn nguồn cung nước sinh hoạt.
Việc xã hội hóa, thu hút nguồn lực tư nhân tham gia đầu tư xây dựng các công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung theo Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn trên địa bàn tỉnh còn rất hạn chế.
Phấn đấu 100% người dân nông thôn có nước sạch
Ông Nguyễn Thái Bình, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái cho biết, mục tiêu của tỉnh Yên Bái đến năm 2030 là tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%, và phấn đấu có 50% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn.

Mục tiêu của tỉnh Yên Bái đến năm 2030 là tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%. Ảnh: Thanh Tiến.
Trong thời gian tới, tỉnh Yên Bái tiếp tục duy trì hoạt động ổn định các công trình cấp nước hiện có; lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư xây dựng nâng cấp, sửa chữa, xây mới các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung phù hợp với nguồn nước cấp và quy mô dân số. Đồng thời, vận động người dân nâng cao ý thức bảo vệ, sử dụng nguồn nước an toàn, tiết kiệm và bền vững. Khuyến khích người dân trồng cây, gây rừng tạo nguồn sinh thủy, tránh những tác động làm ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước từ hoạt động sản xuất.
Ngoài ra, tỉnh Yên Bái rất mong muốn nhận được sự quan tâm hơn nữa từ Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương tiếp tục có các chương trình, đề án về lĩnh vực cấp nước nông thôn; lồng ghép, bố trí các nguồn vốn đầu tư trong các Chương trình mục tiêu Quốc gia cho các địa phương, các tỉnh miền núi có nguồn lực còn khó khăn để xây dựng mới các công trình cấp nước nông thôn; đồng thời sửa chữa, nâng cấp, thay thế hệ thống xử lý nước sạch đạt quy chuẩn cho các công trình hiện có.

Việc đưa nước hợp vệ sinh, nguồn nước đạt quy chuẩn cần nguồn đầu tư từ Trung ương. Ảnh: Thanh Tiến.
Một kiến nghị quan trọng khác là việc ban hành các quy định, chính sách hỗ trợ cụ thể cho việc đầu tư xây dựng công trình cấp nước nhỏ lẻ như đường ống dẫn nước, thiết bị lọc nước hộ gia đình và dụng cụ chứa nước rất phù hợp với các địa phương vùng cao, nơi người dân sống phân tán.
Hành trình mang nước sạch đạt quy chuẩn đến với 100% người dân nông thôn Yên Bái vẫn còn dài và nhiều gian nan. Nhưng với những định hướng rõ ràng, giải pháp cụ thể và sự chung tay của các cấp, các ngành cùng người dân, khát vọng về một nguồn nước đảm bảo cho sức khỏe và sự phát triển bền vững chắc chắn sẽ sớm thành hiện thực trên mảnh đất vùng cao này.