Cuối năm 1944, đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều biến đổi, đe dọa trực tiếp quyền lực và lợi ích của phát xít Nhật ở Đông Dương. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với những thắng lợi liên tiếp của Hồng quân Liên Xô và Đồng minh cùng các lực lượng dân chủ, hòa bình và tiến bộ trên thế giới.

Lá cờ Chiến thắng của Hồng quân được phất trên nóc trụ sở Quốc hội Đức Quốc xã vào năm 1945. Nguồn ảnh: Bảo tàng Nghệ thuật Đa phương tiện Moscow.
Trên chiến trường châu Âu, Hồng quân Liên Xô cùng liên quân Anh, Pháp, Mỹ, Canađa... liên tiếp giành thắng lợi quyết định, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Trên chiến trường châu Á - Thái Bình Dương, quân đội phát xít Nhật bị bao vây, uy hiếp từ bốn phía. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, ngay sau đó mở Chiến dịch Mãn Châu, đánh tan đạo quân Quan Đông, góp phần quyết định buộc Chính phủ Nhật phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Chiến thắng của lực lượng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít đã tạo thuận lợi lớn cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Ở trong nước, nắm thời cơ thuận lợi, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa (7/5/1944) nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Trên cơ sở đó, các địa phương ra sức củng cố các hội cứu quốc, xây dựng và phát triển các đội tự vệ làm nòng cốt cho phong trào khởi nghĩa của quần chúng nhân dân. Giữa tháng 12/1944, tại căn cứ địa Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Thực hiện Chỉ thị, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc tổng Hoàng Hoa Thám, châu Nguyên Bình (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập.

Chương trình của Mặt trận Việt Minh, tháng 5/1941. Nguồn ảnh: Bảo tàng LSQSVN.
Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông Dương. Cuộc đảo chính diễn ra nhanh gọn với sự thất bại hoàn toàn của Pháp ở Đông Dương. Đối với phong trào cách mạng, Nhật tiếp tục huy động lực lượng quân sự lớn mở những cuộc tiến công, càn quét vào các chiến khu, các cơ sở cách mạng, tiến hành đàn áp, khủng bố nhân dân, nhằm tiêu diệt các tổ chức đảng và cơ sở cách mạng Việt Nam. Phát xít Nhật đã trở thành kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam.
Ngay trong đêm 9/3/1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Trung ương mở rộng, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị quyết định phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp với phương châm dựa vào sức mình là chính. Ngày 12/3/ 1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nhận định: Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp là để độc chiếm Đông Dương. Cuộc đảo chính tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Chỉ thị nêu rõ “Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương” [1] và đề ra khẩu hiệu hành động cách mạng: “Đánh đuổi phát xít Nhật”[2]. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng trước những diễn biến phức tạp và mau lẹ của tình hình, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, các tổ chức cách mạng và nhân dân trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, góp phần trực tiếp và quan trọng vào thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Từ ngày 15 – 20/4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân (hợp nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang khác), đề ra nhiệm vụ phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Thực hiện các chủ trương trên, từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang phát triển nhanh, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa từng phần diễn ra khắp các địa phương, các căn cứ địa của trung ương và địa phương được xây dựng và mở rộng. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân phân tán thành nhiều bộ phận hỗ trợ nhân dân nổi dậy; lực lượng Cứu quốc quân phối hợp với quần chúng khởi nghĩa giành thắng lợi ở nhiều nơi.
Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập (gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang), đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Trong tháng 5 và tháng 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và nhiều chiến khu được thành lập theo Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Ở Khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.

Ngày 20/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, nơi Người đã chủ trì Quốc dân Đại hội, quyết định Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng. Nguồn ảnh: Bảo tàng LSQSVN.
Cao trào kháng Nhật, cứu nước đã phát triển tới đỉnh cao sau khi phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh giữa tháng 8/1945. Tình thế trực tiếp cách mạng đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Phong trào chiến tranh du kích tại các chiến khu phát triển mạnh, kết hợp với phong trào quần chúng ở nông thôn và thành thị tạo nên không khí sục sôi cách mạng.
Nhưng mặt khác, thất bại của phát xít Nhật ở Đông Dương lại đưa đến những tính toán mới của các thế lực phản động quốc tế và trong nước. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương. Vì vậy, cả Mỹ, Tưởng, Anh, Pháp... với tư cách lực lượng Đồng minh đã tính toán ý đồ mới của họ ở Đông Dương. Cùng với đó, lực lượng Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội cũng ráo riết chuẩn bị theo đuôi, núp bóng quân Tưởng trở về nước hòng tranh đoạt chính quyền với Việt Minh.
Cách mạng nước ta đứng trước tình thế phải đối phó với cả thù trong, giặc ngoài. Vận mệnh dân tộc đòi hỏi Đảng ta phải hành động kịp thời, khôn khéo và kiên quyết, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng và trí tuệ sáng tạo của toàn dân để giành thắng lợi lịch sử.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, t.7, tr.366.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.367.