Mỗi khi trời hăng hắc nóng, mỗi khi khó ở, mỗi khi không biết nên ăn món gì, thì canh tập tàng lại trở thành lựa chọn đầu tiên.
Chẳng có trong một quyển sách ẩm thực nào, không gia vị cầu kì, không cao lương mỹ vị hỗ trợ, bát canh với đủ vị rau quê cứ dậy lên hương vị yêu thương, mộc mạc kiệm lời.

Bát canh quê. Ảnh: TBT.
Hai chữ tập tàng gợi cho người nghe cảm giác về sự tổng hợp, nhặt nhạnh nhiều thứ với nhau. Quả vậy, tập tàng không phải tên một loại rau cụ thể mà là sự cộng gộp của nhiều loại rau - rau mót. Rau tập tàng với người lớn lên từ ruộng, từ quê thân thương lắm, dung dị và gần gũi lắm. Có nơi cũng gọi là rau “tập tàn” chữ tàn trong tàn vụ. Bởi khi các loại rau được trồng trong vườn đã qua chính vụ thì hạt rau dền cơm, rau dệu, rau sam, rau đắng, ngò om… từ đâu trong đất đâm chồi nảy lá, không cần nâng niu chăm sóc vẫn tốt tươi. Dù là tập tàng hay tập tàn thì mớ rau cũng tạo nên bát canh quê ngọt mát.
Nhưng rau tập tàng cũng có thể là các rau được trồng ngẫu hứng loanh quanh trong vườn nhà. Mấy nhành rau ngót, vài đọt rau khoai, dăm ba lá lốt,... Tất cả cứ tự nhiên xanh không cần mùa vụ, chẳng cần bàn tay nâng niu yêu thương. Những cây rau phát triển hồn nhiên khỏe mạnh góp chung với nhau tạo thành bát canh dân dã gần gũi đồng quê. Rau tập tàng luộc, chén nước chấm đậm đà, bát nước luộc để nguyên hoặc vắt tí chanh; hay đơn giản rau nấu canh với ruốc, mỡ thắng hoặc giã con rạm, con cua đồng lấy nước. Chẳng cầu kì cũng đủ cho một bữa cơm quê kiểng để ai đi xa quê cũng nhớ, cũng thèm. Bát canh tập tàng vì thế trở thành dưỡng chất yêu thương, chiếc cầu nối hai bờ quá khứ và hiện tại, quê nhà và phố.

Hai chữ tập tàng gợi cho người nghe cảm giác về sự tổng hợp, nhặt nhạnh nhiều thứ rau. Ảnh: NT Long Châu.
Tôi làm sao quên được khi mùa vụ đã qua, chưa ai thuê đi làm công vì đất còn bận phơi đợi ngày trồng vụ rau mới, gánh hàng rong mùa đông cũng ế ẩm. Nhà nghèo. Cái nghèo đi qua bậu cửa, luồn vào từng ngóc ngách gợi lên những âu lo. Mẹ cắp rổ cặm cụi hái từng đọt ngót, đọt lang, vài ba lá lốt, nhúm rau dền. Bát canh qua đôi bàn tay tảo tần khéo léo của mẹ ăn vào tới đâu ngọt thơm, ấm lòng tới đó. Này là vị bùi của cọng dền cơm, này là vị ngọt của cành ngót, này là cái nhân nhẩn chua của rau sam, cái nhằng nhặng của rau đắng, cái the le của lốt... mỗi rau góp một chút không tranh vị để cùng ngọt, cùng thơm, cùng mẹ vượt qua những ngày giáp hạt, những lúc đói lòng mà nuôi chúng tôi khôn lớn.
Bát canh tập tàng của mẹ còn dạy cho chúng tôi triết lý sống cộng đồng, để riêng chưa hẳn ra tấm ra món, nhưng gộp chung lại thì đã thành thức mang hương vị đặc trưng. Trong món canh ấy không định lượng rạch ròi nhưng cơ bản phải có sự hài hòa, không có thứ rau nào vượt quá nhiều tỷ lệ, nếu không, sẽ mất đi cái vị tập tàng. Cách hái rau cũng vậy, dù là rau trồng hay rau dại thì cũng phải hái thuận duyên, rau nào lớn nhặt rau ấy, và mỗi cây rau mọc lơ thơ không mùa không vụ, mọc hoang dại cũng có giá trị riêng, không vô nghĩa.

Tuổi thơ ăn bát canh là ăn sự tần tảo chịu thương chịu khó, tiết kiệm của mẹ.. Ảnh minh họa: Quách Duy Thịnh.
Tuổi thơ ăn bát canh là ăn sự tần tảo chịu thương chịu khó, tiết kiệm của mẹ. Lớn lên rồi mới thấy mỗi chén canh cũng là một bài học nếu ta đặt vào đấy những nghĩ suy khi thưởng thức. Mỗi rau một vị nhưng khi nấu chung với nhau tạo nên sự hài hòa, không tranh hương, như chính con người chúng ta mỗi người có một giá trị dự phần tạo ra điều tốt đẹp nếu sống trọn vẹn. Hạnh phúc đôi khi bắt đầu từ việc trân trọng những điều giản đơn.
Canh tập tàng là vậy, chẳng cần và không cần một công thức cụ thể. Mỗi bà mẹ quê tự có cách nấu khác nhau từ việc bắt gặp ngẫu nhiên các loại rau không giống nhau. Mỗi lần nấu là một vị một hương khác biệt bởi đâu lần hái nào rau cũng giống nhau. Tôi đồ rằng mỗi bà mẹ sẽ nấu cho con mình hương vị riêng, như tình yêu dành cho con mình cũng không ai giống ai. Có những tình ngọt ngào bao dung, có tình nghiêm khắc kỉ luật, có tình ấm áp vỗ về... Dù tình cảm thể hiện dưới dạng nào, được gia giảm thêm bớt thế nào thì nó cũng hướng về phía yêu thương. Bát canh tập tàng cũng vậy, dù có vị riêng nhưng đều có điểm chung là vị quê nhà
Bát canh tập tàng - bát canh của mẹ - canh của tuổi thơ đâu chỉ là món ăn. Nó ngọt khi mẹ nêm vào đấy tình yêu thương, sự giản dị, sự tảo tần. Nhớ bát canh đôi khi vì nhớ mẹ, nhớ những ngón tay gày gò, vàng thâm vì đồng áng, nhớ hình ảnh vội vàng sấp ngửa để kịp bữa cơm cho các con. Những đứa con lớn lên xa quê, xa mùi hương rơm rạ củi ẩm khói non, xa mùi ruộng mùi bùn, mỗi lần gặp con cá đồng kho, mùi canh tập tàng, nhớ mẹ, thấy lòng mềm lại như cọng rau non trong nắng, lại lẩm nhẩm câu thơ: “Xa quê nấu bát tập tàng/Dường trong đáy bát bóng làng rưng rưng”. Ôi! Bát canh quê của mẹ, của những người lớn lên từ đồng, từ ruộng, từ mảnh vườn da diết thiết tha. Nỗi nhớ thật lạ, không ồn ào không thể gọi tên cụ thể, chỉ đôi khi hiện hữu giản dị mộc mạc trong một bát canh.