Thế giới thực sự là VUCA (Volatility, Uncertainty, Complexity, Ambiguity - biến động, không chắc chắn, phức tạp, mơ hồ) và BANI (Brittle, Anxious, Nonlinear, Incomprehensible - dễ vỡ, lo âu, phi tuyến tính, khó hiểu). Biến đổi khí hậu, thay đổi môi trường là điển hình nhất cho cả VUCA và BANI.
Trong bối cảnh VUCA, BANI đó, Việt Nam đang bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam, với mục tiêu phát triển nhanh (tăng trưởng hai con số), bền vững, giàu mạnh, thịnh vượng, an toàn và hạnh phúc. Để đạt mục tiêu chiến lược này, công tác bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó BĐKH cần có cách tiếp cận mới, giải pháp đột phá hơn, vừa phát huy được các thành tựu, lợi thế vừa khắc phục các hạn chế, khó khăn.

Giáo sư Mai Trọng Nhuận, Nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: HSB.
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong xây dựng chính sách, pháp luật ứng phó với BĐKH, nhưng vẫn còn nhiều thách thức để thực hiện hiệu quả các cam kết khí hậu quốc gia và quốc tế.
Các quan điểm và một số cách tiếp cận quan trọng về BVMT và ứng phó BĐKH được định hình trong các văn bản chính sách, chiến lược. Tuy nhiên, việc triển khai và lồng ghép các cách tiếp cận này vào thực tiễn vẫn còn là một thách thức. Bối cảnh mới đòi hỏi cần có cách tiếp cận tổng thể, đồng bộ, dựa trên khoa học và lấy con người làm trung tâm để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật. Mục tiêu hướng tới phát triển bền vững và ứng phó hiệu quả với BĐKH, được áp dụng thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống thể chế, chính sách và hành động.
Các cách tiếp cận này phải lấy việc giải quyết các vấn đề môi trường và BĐKH làm động lực chính để đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây là một phương pháp tư duy và hành động chiến lược, nhằm tạo ra các giải pháp mới, khác biệt và hiệu quả vượt trội, phát huy tối đa các lợi thế và đặc thù riêng có. Nhờ đó, Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu lớn với nguồn lực nhỏ trong thời gian ngắn, tăng cường khả năng thích ứng với bối cảnh VUCA, BANI.
4 cách tiếp cận BVMT, ứng phó BĐKH phù hợp với Việt Nam
Một là, lấy bất biến ứng vạn biến.
“Bất biến” ở đây là mục tiêu môi trường trong lành, an toàn, hạnh phúc – kim chỉ nam xuyên suốt trong mọi chính sách và hành động. “Vạn biến” là VUCA và BANI, các vấn đề môi trường và BĐKH diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi sự linh hoạt và khả năng thích ứng cao. Hoạt động, giải pháp BVMT, ứng phó BĐKH được coi là đúng, là phù hợp (dù có thể khác với các quy định trong thể chế chính sách, quy định) nếu cùng hướng tới mục tiêu bất biến đó.
Mặc dù không có quốc gia nào chính thức sử dụng cụm từ "bất biến ứng vạn biến" trong văn bản chính sách, nhưng đã thể hiện trong cách tiếp cận. Đối với Singapore, mục tiêu trở thành một "thành phố vườn" (City in a Garden) và đảm bảo chất lượng sống cao cho người dân đã không thay đổi từ khi quốc gia này độc lập. Để đạt được mục tiêu này trong bối cảnh là một quốc đảo nhỏ, thiếu tài nguyên và biến đổi toàn cầu (vạn biến), Singapore đã áp dụng các giải pháp cực kỳ linh hoạt và sáng tạo như sử dụng công nghệ xử lý nước thải thành nước sạch (NEWater), hệ thống quản lý rác thải thông minh, và các chính sách quy hoạch đô thị chặt chẽ để tối đa hóa không gian xanh…
Đức xác định sẽ chuyển đổi sang một nền kinh tế không carbon và đảm bảo an ninh năng lượng cho người dân, nhưng linh hoạt trong chính sách chuyển đổi năng lượng. Nhiều giải pháp đa dạng như: trợ giá năng lượng tái tạo, đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân, đầu tư vào lưới điện thông minh, và phát triển công nghệ hydro. Các giải pháp này liên tục được điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị toàn cầu.
Hai là, xây dựng xã hội văn minh sinh thái, đặc sắc Việt Nam.
Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm nhất quán lấy an ninh con người và xã hội văn minh sinh thái làm trung tâm, phát huy văn hóa bản địa trong công tác BVMT và ứng phó BĐKH.
Nội hàm chính là xây dựng một xã hội không chỉ giàu mạnh về kinh tế mà còn tiên tiến về văn hóa; có ý thức trách nhiệm cao về BVMT, ứng phó BĐKH và có đủ năng lực chống chịu tốt với BĐKH. Đây vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp. Trong đó, phát triển xã hội phải hài hoà, phù hợp với quy luật tự nhiên, nguồn lực tự nhiên và văn hoá; coi trọng yếu tố văn minh sinh thái, văn hóa trong BVMT, ứng phó BĐKH. Và đặc biệt, phải phát huy bản sắc Việt Nam.

Người Việt Nam phát huy bản sắc dân tộc và có ý thức trách nhiệm cao trong giữ gìn bảo vệ môi trường. Ảnh: 3ackpackers.
Một số khía cạnh của cách tiếp cận này đã được đề cập trong chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội năm 1991 (sửa đổi, bổ sung 2011) đã đề ra phương hướng “tuân thủ nghiêm ngặt việc BVMT, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau”. Chỉ thị số 36/1998/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước đã đưa ra quan điểm cơ bản làm kim chỉ nam xuyên suốt đến nay: “BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; BVMT là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm PTBV, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH Đất nước”.
Nhìn sang Trung Quốc, khái niệm “Văn minh sinh thái" (Ecological Civilization) đã được đưa vào Hiến pháp. Mục tiêu hướng đến việc xây dựng một xã hội hài hòa với thiên nhiên, trong đó con người và môi trường cùng tồn tại và phát triển. Bhutan là quốc gia tiên phong với triết lý "Tổng hạnh phúc quốc gia" (Gross National Happiness - GNH), đặt sự cân bằng giữa phát triển kinh tế, bảo tồn văn hóa, bảo vệ môi trường và quản trị tốt làm mục tiêu cao nhất. Hiến pháp Bhutan quy định ít nhất 60% diện tích đất phải được bảo phủ bởi rừng vĩnh viễn. Du lịch cũng được quản lý chặt chẽ theo nguyên tắc "số lượng ít, giá trị cao", nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường và văn hóa. Cách làm này đã giúp Bhutan trở thành một trong những quốc gia có môi trường tự nhiên được bảo tồn tốt nhất thế giới.
Nhật Bản với triết lý "Mottainai" (sự tiếc nuối khi lãng phí) đã xây dựng một nền văn hóa hài hòa với thiên nhiên, tiêu dùng bền vững và tái chế hiệu quả với các hệ thống phân loại rác phức tạp. Triết lý "Satoyama" - làng và núi, thể hiện sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, nơi các cộng đồng nông thôn sống gắn bó với hệ sinh thái địa phương. Satoyama đã được UNESCO công nhận, trở thành một mô hình phát triển bền vững được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới.
Ba là, biến công tác BVMT và ứng phó BĐKH thành lợi thế cạnh tranh quốc gia
Cách tiếp cận này gắn với chuyển đổi tư duy từ coi môi trường, BĐKH là gánh nặng thành cơ hội nâng cao năng suất, chất lượng và vị thế quốc gia trong hội nhập quốc tế.
Nội hàm chính là tích hợp BVMT, ứng phó BĐKH như cơ hội thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đầu tư vào chính sách, chiến lược phát triển từ quốc gia, ngành, địa phương đến cơ quan, doanh nghiệp. Chuyển đổi để nâng cao giá trị bằng cách tái cấu trúc nền kinh tế từ nâu (thâm dụng năng lượng, tài nguyên, phát thải cao) sang "xanh" (tuần hoàn, carbon thấp, chống chịu cao). Trong đó, chú trọng phát triển công nghệ và sản phẩm xanh làm lợi thế xuất khẩu (hàng hóa, dịch vụ có hàm lượng carbon thấp, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế (CBAM, ESG...), tăng năng suất lao động và hiệu quả sử dụng tài nguyên, áp dụng các tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn phát thải nghiêm ngặt.
Việt Nam cũng cần xây dựng thương hiệu quốc gia xanh, định vị chiến lược và quảng bá "Việt Nam - Điểm đến xanh" thông qua chỉ số Green GDP (chỉ số phát thải trên đơn vị GDP, năng suất tài nguyên), các nhãn hiệu sinh thái quốc gia uy tín cho sản phẩm, dịch vụ được quốc tế công nhận. Điều này thu hút các nhà đầu tư xanh và người tiêu dùng có ý thức về BVMT, ứng phó BĐKH. Qua đó, phát triển thị trường cho kinh tế xanh, tuần hoàn, carbon thấp, chống chịu cao.
Về đẩy mạnh khoa học công nghệ, chuyển đổi số ứng phó BĐKH, BVMT, nhu cầu sẽ tập trung vào hệ thống cảnh báo sớm, mô hình dự báo tác động khí hậu, hệ thống báo cáo kiểm kê KNK trực tuyến, thời gian thực; phát triển các công nghệ chiến lược, tiên tiến như: công nghệ năng lượng tái tạo, thu giữ, sử dụng và lưu trữ carbon, sản xuất hydrogen xanh; sản xuất vật liệu carbon thấp, công nghệ biến đổi gen cây trồng thích ứng với khí hậu; công nghệ nông nghiệp và quản lý đất đai bền vững; công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) nâng cao hiệu quả năng lượng, BVMT...
Để phục vụ quy hoạch phát triển, cần xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia thời gian thực về môi trường, BĐKH, bản đồ rủi ro khí hậu, bản đồ chất lượng môi trường, bản đồ kinh tế carbon và các dữ liệu không gian.
Về nâng cao năng lực, cần tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn chuyên sâu đáp ứng nhu cầu nhân lực (kỹ sư, nhà khoa học, chuyên gia tài chính, kinh tế...) cho kinh tế xanh, tuần hoàn, carbon thấp, vận dụng sáng tạo các cách tiếp cận mới về BVMT, ứng phó BĐKH. Tích hợp BĐKH vào chương trình giáo dục phổ thông, đại học; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong các chương trình khí hậu, BVMT theo các cách tiếp cận mới; nâng cao nhận thức và hành vi tiêu dùng bền vững, xây dựng xã hội tuần hoàn, carbon thấp, chống chịu cao với BĐKH.

Cách tiếp cận bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu hiện diện trong các hoạt động phát triển kinh tế. Ảnh: DCC.
Đặc biệt, công tác hoàn thiện thể chế, chính sách rất quan trọng để thực hiện các nội dung trên. Cần thiết xây dựng Luật Biến đổi khí hậu riêng, tích hợp đồng bộ thể chế, chính sách về BVMT- ứng phó BĐKH- tăng trưởng xanh - phát triển bền vững; tích hợp đồng bộ BVMT, BĐKH vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, quản lý rủi ro thiên tai, phát triển hạ tầng; tăng cường năng lực thực thi và điều phối, tăng cường phân cấp từ trung ương - cấp tỉnh - xã/phường gắn với trách nhiệm giải trình.
Bốn là dựa vào quản trị an ninh phi truyền thống.
Với cách tiếp cận này, các thách thức môi trường, BĐKH là mối đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, an ninh con người và sự ổn định xã hội. Việc tích hợp công tác quản trị rủi ro, phòng ngừa, ứng phó và phục hồi vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh sẽ biến các nỗ lực BVMT, ứng phó BĐKH trở thành một trụ cột không thể tách rời của an ninh quốc gia. Mục tiêu nhằm đảm bảo ổn định xã hội và phát triển bền vững, nâng cao khả năng chống chịu của đất nước trong bối cảnh bất định toàn cầu.
Các yếu tố chính bao gồm: Xác định BĐKH và ô nhiễm, suy thoái môi trường là mối đe dọa an ninh quốc gia; chủ động phòng ngừa; phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, các cấp, và cả khu vực tư nhân trong công tác quản trị; tăng cường quản trị rủi ro môi trường, BĐKH đa ngành, liên vùng, xuyên biên giới; xây dựng năng lực thích ứng xã hội và phục hồi sinh thái.
Đảng bộ Bộ NN-MT là động lực của cả 4 cách tiếp cận
Đất nước đang đứng trước nhiều thử thách để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số nhưng vẫn phải đảm bảo các vấn đề an ninh, an sinh xã hội. Việc tích hợp đồng bộ 4 cách tiếp cận và hình thành hệ sinh thái chính sách có thể là căn cứ cho quá trìnhbổ sung, hoàn thiện, đổi mới thể chế, chính sách, các giải pháp BVMT, ứng phó hiệu quả BĐKH và giúp định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Với vai trò quản lý cả hai lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu, Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong nhiệm kỳ mới là động lực để hiện thực hóa 4 cách tiếp cận trên. Đảng bộ Bộ cần chủ động tham mưu chiến lược, đề xuất Luật Biến đổi khí hậu và tích hợp đồng bộ với Luật Bảo vệ môi trường cùng với các luật liên quan.
Trong đó, bộ khung chính sách gồm: Trục giá trị (lấy bất biến ứng vạn biến), trục xã hội (văn minh sinh thái Việt Nam), trục kinh tế (tăng trưởng xanh, tuần hoàn, carbon thấp, cạnh tranh cao), trục an ninh (quản trị rủi ro môi trường, BĐKH như mối đe dọa an ninh quốc gia). Bên cạnh đó, thí điểm mô hình “xã hội văn minh sinh thái đặc sắc Việt Nam” tại các đô thị xanh, vùng ven biển, đồng bằng dễ tổn thương bởi ô nhiễm môi trường, BĐKH sau đó nhân rộng ra các khu vực khác. Lồng ghép các cách tiếp cận trong giáo dục, đào tạo, nâng cao năng lực công chức, nhà quản lý, truyền thông nâng cao nhận thức và hành động cộng đồng.
Trong các lĩnh vực NN-MT cần nhấn mạnh những định hướng về: Phát triển sản phẩm nông nghiệp xanh đạt tiêu chuẩn quốc tế, tăng giá trị xuất khẩu; ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số; biến đổi gen cây trồng thích ứng khí hậu; phát triển hệ thống dữ liệu quốc gia thời gian thực, bản đồ rủi ro khí hậu, bản đồ kinh tế carbon phục vụ quy hoạch và quản lý; đào tạo nhân lực chất lượng cao cho kinh tế xanh, tuần hoàn, carbon thấp, công nghệ chiến lược; khuyến khích cộng đồng, doanh nghiệp tham gia chương trình khí hậu, BVMT...
Bằng cách chủ động và có chiến lược, Việt Nam có thể biến thách thức từ các vấn đề môi trường, BĐKH thành động lực để đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đạt được mục tiêu chiến lược. Từ đó, ghi tên mình vào các quốc qua tiên phong BVMT, ứng phó BĐKH hiệu quả, không chỉ cho Việt Nam mà cho toàn nhân loại.