Nhiều khu công nghiệp phát thải cao
Không chỉ là đầu tàu thu hút đầu tư và phát triển sản xuất, các khu công nghiệp (KCN) giữ vai trò mũi nhọn, còn là nơi tập trung phần lớn các nguồn phát thải khí nhà kính, nước thải công nghiệp và chất thải rắn. Việc giảm phát thải trong các KCN là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa cam kết Net Zero của quốc gia.
Nhiều KCN ở Việt Nam được xây dựng từ giai đoạn 1990–2010, khi vấn đề biến đổi khí hậu chưa trở thành ưu tiên toàn cầu. Điều này dẫn đến một thực tế là nhiều doanh nghiệp trong các KCN vẫn sử dụng công nghệ sản xuất lỗi thời, thiết bị tiêu tốn nhiều năng lượng như lò hơi đốt than, hệ thống làm mát bằng nước trực tiếp, động cơ cơ khí công suất thấp. Một số ngành như dệt nhuộm, chế biến thực phẩm, luyện kim vẫn áp dụng công nghệ tiêu chuẩn cũ dẫn đến lượng lớn khí thải và nước thải chưa được xử lý triệt để.

Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Ảnh: Thu Nga.
Các hệ thống xử lý môi trường cũng chủ yếu dùng công nghệ cũ, không đồng bộ. Ước tính chỉ khoảng 30% KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn quy chuẩn Việt Nam (QCVN) và giám sát tự động. Phần còn lại hoặc không có, hoặc chất lượng không ổn định. Các chất thải rắn, chất thải nguy hại vẫn chủ yếu xử lý phân tán, thiếu giám sát và tỷ lệ tái chế rất thấp.
Đa phần KCN chưa áp dụng hệ thống giám sát môi trường theo thời gian thực, không đo đếm phát thải carbon định lượng dẫn đến thiếu căn cứ để kiểm soát và giảm thiểu hiệu quả.
Những thực tế trên khiến KCN đang là nút thắt của hành trình giảm phát thải. Nếu chuyển đổi đúng hướng, KCN sẽ góp phần giúp Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero một cách thực chất và khả thi. Vấn đề không phải là liệu có thể hay không, mà là ai sẽ đi trước, và đi đến đâu.
Giải pháp
Theo các chuyên gia, để đạt được mục tiêu Net Zero vào năm 2050 không chỉ là trách nhiệm của Chính phủ mà còn là cơ hội và trách nhiệm của chính các chủ đầu tư KCN và doanh nghiệp hoạt động trong đó. Nếu chủ động đầu tư đúng hướng, họ hoàn toàn có thể tạo ra những thay đổi mang tính hệ thống, giúp giảm 20–40% lượng khí thải nhà kính trong vòng 5–10 năm. Một số giải pháp hiệu quả đã được chứng minh trên thực tế.
Đơn cử, một doanh nghiệp dệt nhuộm tại Nam Định đã chủ động thay thế hệ thống lò hơi đốt than bằng nồi hơi sử dụng biomass và tích hợp hệ thống tận thu nhiệt thải. Kết quả, lượng phát thải CO2 giảm hơn 30%, đồng thời tiết kiệm tới 25% chi phí năng lượng mỗi năm.

Trung tâm điều hành khu công nghiệp thông minh của IMC. Ảnh: Thu Nga.
Tại Hưng Yên, 21 doanh nghiệp đang hoạt động trong các KCN trên địa bàn tỉnh đã được chấp thuận lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà với tổng công suất trên 25 MW. Sau khi lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời, doanh nghiệp sẽ nhận được chứng chỉ về I-REC (chứng chỉ năng lượng tái tạo) nên nhiều doanh nghiệp có xu hướng chuyển sang nguồn năng lượng sạch này.
Các chủ đầu tư cũng có thể chủ động triển khai các giải pháp giảm phát thải, tái sử dụng nước thải, tăng khả năng tuần hoàn tài nguyên trong nội khu thông qua các giải pháp cộng sinh giữa các doanh nghiệp trong KCN (một tiêu chí để được công nhận là KCN sinh thái). Tại KCN Trà Nóc 1&2, bước đầu thực hiện đã giúp tiết kiệm cho doanh nghiệp gần 47 tỷ đồng/năm, đồng thời cũng đã giúp giảm tiêu thụ năng lượng điện (13.255.095 kwh); nước (365.326 m3/năm); hóa chất và chất thải (666 tấn/năm); giảm 12 Kt khí CO2/năm.
“Việc các chủ đầu tư, doanh nghiệp trong KCN chủ động chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, phát thải thấp không chỉ giúp Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu Net Zero mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao từ các đối tác toàn cầu đang ưu tiên yếu tố ESG”, ông Lê Hồng Quân – Giám đốc Tổ hợp KCN Đồng Văn II, Công ty CPDV QLVH KCN IMC nhận định.
Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi, bên cạnh vai trò định hướng của chủ đầu tư và sự chủ động của doanh nghiệp, công tác quản lý vận hành khu công nghiệp giữ vị trí then chốt.
Đơn vị quản lý vận hành KCN chính là cầu nối giữa chính sách, hạ tầng khu công nghiệp và hành động thực tế, giúp hiện thực hóa mục tiêu xanh thông qua việc giám sát và vận hành hiệu quả hệ thống xử lý nước thải tập trung, áp dụng hệ thống KCN thông minh ứng dụng công nghệ IOT để thu thập, đo lường và phân tích các chỉ số môi trường của KCN, từ đó đưa ra các giải pháp kịp thời cũng như đảm bảo số liệu minh bạch cho các báo cáo môi trường.
Năng lực của đơn vị quản lý vận hành tại KCN trong việc liên tục cải tiến công nghệ, chuyển đổi số công tác vận hành còn góp phần quan trọng hỗ trợ các doanh nghiệp trong KCN tiếp cận giải pháp công nghệ mới, tích hợp công nghệ số trong quản lý môi trường thông minh, an ninh thông minh…
KCN là một tác nhân vô cùng quan trọng trong mục tiêu hướng đến Net Zero. Để tất cả KCN chuyển mình theo hướng phát triển bền vững, góp phần quan trọng vào mục tiêu Net Zero luôn cần đến sự quan tâm của tất cả chủ đầu tư hạ tầng KCN, các doanh nghiệp thứ cấp và đơn vị quản lý vận hành KCN.
Đơn vị quản lý vận hành KCN đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy “cộng sinh” giữa các doanh nghiệp trong KCN với nhau, nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm phát thải.