Việt Nam không chỉ duy trì vị thế là một trong những quốc gia giảm nghèo nhanh nhất thế giới, mà còn đang chuyển dịch sang giai đoạn phát triển mới - nơi giảm nghèo gắn với chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực người dân và thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở khu vực nông thôn. Trước bối cảnh đó, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trần Lâm, Chuyên gia Quỹ Quốc tế về Phát triển Nông nghiệp (IFAD) để làm rõ những xu thế mới, vai trò của các mô hình sinh kế hiện đại và giải pháp giúp Việt Nam đạt mục tiêu không chỉ thoát nghèo, mà “thoát nghèo một cách tự chủ và bền vững”.
Ông Nguyễn Trần Lâm, Chuyên gia Quỹ Quốc tế về Phát triển Nông nghiệp (IFAD). Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về bức tranh tổng thể và những chuyển biến nổi bật của công tác giảm nghèo Việt Nam giai đoạn 2021-2025 so với các giai đoạn trước?
Theo tôi, giai đoạn 2021-2025 đánh dấu một bước chuyển rất rõ nét trong công tác giảm nghèo của Việt Nam, cả về cách tiếp cận lẫn kết quả đạt được. Nếu như trước đây, chúng ta tập trung chủ yếu vào giảm nghèo theo thu nhập, thì nay, Việt Nam đã chuyển sang giảm nghèo đa chiều, coi trọng cả các yếu tố như giáo dục, y tế, việc làm, nhà ở, thông tin và mức độ tham gia xã hội. Chính sự thay đổi về tư duy này đã giúp công tác giảm nghèo đi vào chiều sâu, bền vững hơn, hướng đến nâng cao năng lực tự chủ cho người dân.
Bên cạnh đó, dù chịu tác động của đại dịch, biến đổi khí hậu và suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ giảm nghèo ổn định, trung bình 1-1,5%/năm. Các chính sách được triển khai đồng bộ, gắn với phát triển sinh kế và nâng cao năng lực tự chủ cho người dân.
Đặc biệt, sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế đã giúp công tác giảm nghèo mang tính bền vững, bao trùm và thích ứng cao hơn so với các giai đoạn trước.
Theo ông, đâu là những yếu tố mang tính nền tảng: từ thể chế, chính sách đến sự tham gia của người dân và cộng đồng quốc tế đã góp phần tạo nên thành công trong công cuộc giảm nghèo hiện nay?
Theo tôi, thành công của Việt Nam trong công cuộc giảm nghèo những năm gần đây đến từ ba nhóm yếu tố nền tảng. Trước hết là sự nhất quán trong chủ trương và thể chế, khi Đảng và Nhà nước coi giảm nghèo bền vững là trọng tâm phát triển, gắn với các mục tiêu quốc gia về an sinh xã hội, nông thôn mới và phát triển con người.
Người dân được tiếp cận vốn từ tín dụng ưu đãi để xây dựng mô hình kinh tế vườn - ao - chuồng, vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Thứ hai, chính sách ngày càng thiết thực và linh hoạt, chuyển từ hỗ trợ trực tiếp sang tạo sinh kế, đào tạo nghề, thúc đẩy tiếp cận dịch vụ cơ bản, tín dụng ưu đãi và công nghệ số, giúp người dân chủ động vươn lên.
Thứ ba, sự chung tay của cộng đồng và đối tác quốc tế cũng là nhân tố quan trọng. Các tổ chức như IFAD, WB, UNDP, JICA… đã đồng hành trong việc hỗ trợ kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm quốc tế. Cùng với đó, vai trò chủ động của người dân, đặc biệt là phụ nữ và thanh niên nông thôn, đã biến chính sách thành hành động thực tiễn, tạo nên kết quả giảm nghèo bền vững và bao trùm hơn.
Việt Nam đang chuyển từ mô hình “giảm nghèo theo thu nhập” sang “giảm nghèo đa chiều”. Ông có thể phân tích ý nghĩa của sự chuyển hướng này trong việc đảm bảo tính bền vững của kết quả giảm nghèo?
Việc chuyển từ “giảm nghèo theo thu nhập” sang “giảm nghèo đa chiều” là một bước tiến có ý nghĩa chiến lược trong chính sách an sinh của Việt Nam. Cách tiếp cận mới này không chỉ xem xét mức thu nhập mà còn đánh giá khả năng tiếp cận của người dân đối với giáo dục, y tế, việc làm, nhà ở, nước sạch và thông tin, qua đó phản ánh toàn diện hơn chất lượng cuộc sống.
Nhờ đó, công tác giảm nghèo không dừng ở việc “đủ ăn, đủ mặc” mà hướng đến nâng cao năng lực tự chủ và cơ hội phát triển của người dân. Đây cũng là nền tảng giúp giảm nguy cơ tái nghèo, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và rủi ro kinh tế toàn cầu ngày càng gia tăng. Có thể nói, giảm nghèo đa chiều đã đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển bao trùm, công bằng và bền vững.
Trong bối cảnh chuyển đổi số và kinh tế xanh đang lan tỏa mạnh mẽ ở nông thôn, theo ông, đây có phải là “cơ hội vàng” giúp Việt Nam thúc đẩy giảm nghèo bền vững, đồng thời bảo đảm người nghèo không bị bỏ lại phía sau?
Chuyển đổi số và kinh tế xanh thực sự là “cơ hội vàng” để Việt Nam thúc đẩy giảm nghèo bền vững. Nhờ công nghệ số, người dân nông thôn có thể tiếp cận tri thức, thị trường và dịch vụ tài chính dễ dàng hơn, qua đó mở rộng sinh kế và tăng năng suất lao động. Cùng với đó, kinh tế xanh và nông nghiệp tuần hoàn đang tạo ra nhiều mô hình việc làm mới, giúp giảm phát thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên và nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Những mô hình nông nghiệp rau sạch đã giúp gia đình thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Tuy nhiên, để người nghèo không bị “bỏ lại phía sau”, cần chú trọng phát triển hạ tầng số ở vùng khó khăn, đồng thời đào tạo kỹ năng số và tư duy kinh tế xanh cho người dân, đặc biệt là phụ nữ và thanh niên nông thôn. Chỉ khi chuyển đổi số gắn liền với công bằng tiếp cận, nó mới thực sự trở thành động lực bao trùm cho giảm nghèo bền vững.
Từ kinh nghiệm quốc tế của IFAD, ông nhận định ra sao về vai trò của phụ nữ, thanh niên nông thôn và yếu tố “thoát nghèo tự chủ” trong việc xây dựng các mô hình sinh kế hiện đại, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2030?
Từ kinh nghiệm của IFAD, tôi cho rằng phụ nữ và thanh niên nông thôn là hai lực lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc giảm nghèo bền vững. Họ không chỉ là đối tượng thụ hưởng, mà thực sự là chủ thể của phát triển.
Giai đoạn 2021-2025, gần 55% người hưởng lợi trực tiếp từ các dự án IFAD là phụ nữ, và hơn 35% là thanh niên nông thôn. Thông qua các mô hình nhóm tiết kiệm - tín dụng, phụ nữ không chỉ được tiếp cận nguồn vốn mà còn được đào tạo kỹ năng quản lý tài chính, khởi nghiệp và lãnh đạo cộng đồng, từ đó nâng cao vị thế và năng lực tự chủ.
Đối với thanh niên, IFAD tập trung hỗ trợ họ tham gia các mô hình khởi nghiệp xanh, tiêu biểu như sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn ESG, phát triển du lịch sinh thái và thương mại điện tử nông nghiệp. Tại Trà Vinh, các dự án IFAD đã giúp thành lập 25 tổ hợp tác do thanh niên làm chủ, trong đó 7 tổ hợp tác đã phát triển lên thành hợp tác xã ứng dụng công nghệ số, tạo việc làm có thu nhập ổn định và giúp thanh niên gắn bó với quê hương.
Những mô hình này cho thấy, khi phụ nữ và thanh niên được tiếp cận nguồn lực, tri thức và cơ hội, họ có thể trở thành động lực đổi mới sáng tạo của nông thôn Việt Nam. Khi người dân có kiến thức, kỹ năng và niềm tin vào năng lực của chính mình, họ mới thực sự thoát nghèo một cách tự chủ và bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nông thôn thịnh vượng, bao trùm và thích ứng đến năm 2030.
Trân trọng cảm ơn ông!




![Le lói hy vọng núi rừng: [Bài 3] Cây lúa cúi đầu, hạt cốm dẻo thơm](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/hieupt/2025/11/12/5238-z6997861506782_c57d436b24a7f60fc9b51ad9d9bcddee-024711_269.jpg)



![Đại điền thoát nghèo: [Bài 3] Lấy thân mình che kho thóc](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/11/17/4027-dai-dien-thoat-ngheo-mau-va-hoa-iii-nguoi-lay-than-minh-che-cho-kho-thoc-180918_845.jpg)
![Những người không cam phận nghèo: [Bài 4] Tỷ phú trồng hoa nơi nắng gió](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/tiepld86/2025/10/25/4050-anh-huy-nongnghiep-174045.jpg)






![Những người không cam phận nghèo: [Bài 4] Tỷ phú trồng hoa nơi nắng gió](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/tiepld86/2025/10/25/4050-anh-huy-nongnghiep-174045.jpg)