Gạo Việt đã xây dựng được thị trường riêng
Hiệp hội Các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan (TREA) mới đây cho biết, nửa đầu năm 2025, gạo Việt Nam chính thức vượt qua Thái Lan, giữ vị trí là nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Ấn Độ.
Cụ thể, 6 tháng đầu năm 2025, Ấn Độ xuất khẩu 11,68 triệu tấn gạo, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Tiếp sau là Việt Nam với 4,72 triệu tấn, tăng 3,5% và Thái Lan đứng thứ ba với khối lượng xuất khẩu là 3,73 triệu tấn, giảm 27,3%.
Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, trong bối cảnh thế giới dư cung và xuất khẩu gạo suy giảm, ngay cả Thái Lan - quốc gia nhiều năm giữ vị trí thứ hai - cũng giảm hơn 30% sản lượng so với cùng kỳ. Ngược lại, xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn tăng trưởng 3,1% về sản lượng.

"Siêu vùng nguyên liệu” - 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL đang được triển khai hiệu quả. Ảnh: Hồng Thắm.
7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã xuất khẩu 5,5 triệu tấn gạo, thu về 2,8 tỷ USD. Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam là 514 USD/tấn dù giảm so với các năm gần đây nhưng vẫn cao hơn so với các nước, cho thấy bước tiến rất tốt. Dự báo cả năm 2025, xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đạt khoảng gần 8 triệu tấn, giữ vững vị trí quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Cũng theo ông Nam, gạo Việt Nam hiện nay đã xây dựng được thị trường riêng với các dòng gạo, OM và ST25... Đặc biệt, gạo ST25 được kiều bào trên thế giới đánh giá rất ngon, thể hiện “tình yêu đi qua dạ dày” và góp phần nâng cao hình ảnh quốc gia. Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam là 514 USD/tấn dù giảm so với các năm gần đây nhưng vẫn cao hơn so với các nước.
Tuy nhiên, ông Nam cho rằng, để phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo, cần đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường như: Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Phi… và để hạt gạo xâm nhập vào thị trường này cần phải có sự vào cuộc ở cấp Chính phủ.
Cơ sở để chúng ta tự tin đột phá vào các thị trường này là việc đã hình thành vùng chuyên canh 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, người đứng đầu VFA nói thêm.
Ông Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) cho biết: Nói đến xuất khẩu thì cốt lõi vẫn là sản xuất, mà nền tảng chính là vùng nguyên liệu. Việt Nam có lợi thế lớn với nền tảng sản xuất lúa gạo hàng đầu Đông Nam Á, tiệm cận trình độ thế giới và đã đạt nhiều bước tiến vượt bậc.
Ông nhấn mạnh: Chương trình “Siêu vùng nguyên liệu” - 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL đang được triển khai hiệu quả. Do đó có thể mở rộng ra các vùng khác, vừa giữ vững an ninh lương thực quốc gia, vừa nâng cao năng lực xuất khẩu.
Áp lực cho gạo Việt từ cả bên ngoài lẫn nội tại
Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) nhận định, việc Việt Nam vượt Thái Lan về khối lượng xuất khẩu gạo không phải “ăn may”, mà là kết quả của cả một thập kỷ đầu tư vào giống, công nghệ chế biến và chiến lược thị trường. Thành tích này đang phản ánh ngày càng rõ sự chuyển dịch từ “xuất khẩu nhiều” sang “xuất khẩu có giá trị”, tạo lợi thế cạnh tranh rõ rệt. Tuy nhiên, để duy trì vị thế, ngành gạo Việt vẫn cần tháo gỡ một số nút thắt, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao và không để sự tự mãn làm chậm đà tiến.
MXV phân tích, đằng sau sự hoán đổi vị trí với Thái Lan là hai xu hướng song song. Một mặt, xuất khẩu gạo Thái Lan sụt giảm sâu bởi chính nước này cũng đã dự báo cả năm chỉ đạt 7,5 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với 9,94 triệu tấn của năm 2024. Rủi ro lớn hơn đến từ căng thẳng thương mại với Hoa Kỳ, khi Washington đe dọa áp thuế 36% lên gạo Thái, đẩy giá bán từ khoảng 1.000 USD/tấn lên 1.400 - 1.500 USD/tấn. Mức giá cao khiến nhiều khách hàng chuyển hướng sang những nguồn cung cạnh tranh hơn, trong đó có Việt Nam.

Để giữ vững vị thế, về dài hạn, hướng đi bền vững phải là chuyển sang xuất khẩu gạo chất lượng cao, gạo hữu cơ, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu quốc gia. Ảnh: NNMT.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam không chỉ tận dụng “khoảng trống” mà còn chủ động mở rộng thị trường. Với giá xuất khẩu trung bình 514 - 517 USD/tấn, gạo Việt Nam rẻ hơn đáng kể so với gạo Thái Lan, qua đó thâm nhập mạnh hơn vào các khu vực ngoài thị trường truyền thống.
Tuy nhiên vẫn còn đó nhiều khó khăn, thách thức. Cuộc đua giữa Việt Nam và Thái Lan cho vị trí số 2 trên bản đồ xuất khẩu gạo đã kéo dài nhiều năm. Thái Lan sở hữu lợi thế lâu đời về thương hiệu, đặc biệt ở phân khúc gạo thơm chất lượng cao như thương hiệu Hom Mali nổi tiếng, được nhiều thị trường cao cấp ưa chuộng. Khi thời tiết thuận lợi, nước này hoàn toàn có thể nhanh chóng tăng sản lượng, gia tăng áp lực lên các thị trường mà Việt Nam đang khai thác.
Với bối cảnh đó, duy trì vị trí thứ hai là một thách thức lớn cho Việt Nam. Ngay trong nội tại, ngành gạo vẫn đối mặt với những rủi ro đáng kể. ĐBSCL - “vựa lúa” chính cho xuất khẩu vẫn chịu tác động của xâm nhập mặn, hạn hán và biến đổi khí hậu, khiến sản lượng tiềm ẩn nhiều biến động. Chỉ một vụ mùa kém cũng đủ đảo chiều đà tăng trưởng.
Dù các giống gạo thơm như ST24, ST25 đã tạo tiếng vang, thương hiệu “Gạo Việt” chưa đạt mức nhận diện toàn cầu và chưa được định vị rõ ở phân khúc cao cấp như “Hom Mali”. Nếu không có chiến lược xây dựng thương hiệu và chế biến sâu, Việt Nam khó tận dụng tối đa cơ hội ở phân khúc giá trị gia tăng.
Bên cạnh đó, các chính sách điều hành xuất khẩu và rào cản kỹ thuật từ các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản vẫn là thách thức lớn. Trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu yếu đi hoặc đối thủ hạ giá mạnh, lợi thế cạnh tranh về giá của Việt Nam sẽ thu hẹp. Điều này đòi hỏi chiến lược dài hạn, chuyển trọng tâm từ tăng sản lượng sang nâng cao giá trị sản phẩm.
Theo đó, MXV cho rằng, trong ngắn hạn (6-12 tháng tới), Việt Nam vẫn có thể giữ vị trí thứ 2 nhờ nguồn cung ổn định và các hợp đồng đã ký. Nhưng trong trung hạn (1-3 năm), nếu Ấn Độ tiếp tục "bơm" hàng ra thị trường hoặc Thái Lan phục hồi sản lượng kèm chiến lược giá linh hoạt, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn nhiều. Khi đó, lợi thế chỉ có thể duy trì bằng đầu tư vào thương hiệu, chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm.
Về dài hạn, hướng đi bền vững phải là chuyển sang xuất khẩu gạo chất lượng cao, gạo hữu cơ, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu quốc gia. Nếu không, vị trí số hai hiện tại có thể chỉ là một “đỉnh sóng” ngắn ngủi giữa chu kỳ dư cung và biến động khí hậu toàn cầu.