Cánh cửa thị trường 10.000 tỷ USD
Theo Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC), người Hồi giáo chiếm khoảng 25% dân số toàn cầu, tương đương 2 tỷ người tiêu dùng. Cùng với đó, quy mô ngành thực phẩm Halal đạt 2.354 tỷ USD năm 2022 và được dự báo tăng gần gấp đôi lên 4.987 tỷ USD vào năm 2029. Riêng lĩnh vực du lịch và dịch vụ ăn uống Halal dự kiến chi tiêu 325 tỷ USD mỗi năm vào năm 2030.
Với nông nghiệp và chế biến thực phẩm là trụ cột xuất khẩu, Việt Nam được đánh giá có nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia chuỗi cung ứng Halal toàn cầu: sản phẩm đa dạng, vùng nguyên liệu sạch, trình độ chế biến ngày càng cao, và vị trí địa lý gần các trung tâm tiêu thụ Hồi giáo ở Đông Nam Á và Nam Á.

TS Ngô Xuân Nam phát biểu khai mạc hội nghị sáng 23/10. Ảnh: Hoàng Long.
“Halal không chỉ là thị trường, mà còn là một chuẩn mực mới về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và đạo đức sản xuất. Đáp ứng được chuẩn này, hàng Việt sẽ bước sang một cấp độ mới trong thương mại quốc tế”, ông Nguyễn Thành Duy, Phó Vụ trưởng Vụ Trung Đông - Châu Phi (Bộ Ngoại giao) chia sẻ tại Hội nghị Phổ biến các quy định về an toàn thực phẩm và SPS trong các FTA với khối Halal sáng 23/10.
Tuy nhiên, theo ông Duy, Halal vẫn là khái niệm khá mới đối với phần lớn doanh nghiệp và địa phương. Việc chứng nhận Halal hiện còn do các tổ chức nước ngoài thực hiện, chi phí cao, thời gian kéo dài, trong khi Việt Nam chưa có cơ quan quản lý thống nhất hay hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động này.
“Không ít doanh nghiệp có năng lực sản xuất tốt nhưng vẫn chưa thể xuất khẩu vào thị trường Hồi giáo chỉ vì thiếu giấy chứng nhận hoặc không rõ cơ chế công nhận lẫn nhau giữa các nước”, ông Duy chia sẻ.
Ngoài ra, Việt Nam thiếu nguồn nhân lực Hồi giáo được đào tạo bài bản, yếu tố bắt buộc trong quy trình chứng nhận Halal. Cùng với đó, sự thiếu đồng bộ giữa các khâu sản xuất, logistics, thương mại và xúc tiến quốc tế khiến hệ sinh thái Halal trong nước chưa hình thành hoàn chỉnh.
Trước những thách thức đó, Bộ Ngoại giao, cơ quan được Chính phủ giao đầu mối thúc đẩy hợp tác Halal đã phối hợp cùng các bộ, ngành triển khai nhiều bước đi mang tính nền tảng.
Nổi bật nhất là việc xây dựng Nghị định quản lý sản phẩm và dịch vụ Halal, hiện đang được hoàn thiện để trình Chính phủ. Nghị định sẽ là khung pháp lý cao nhất, quy định rõ các nguyên tắc, quy trình, tiêu chí công nhận, cấp phép và giám sát hoạt động chứng nhận Halal tại Việt Nam. “Khi Nghị định ban hành, chúng ta sẽ lần đầu tiên có một hành lang pháp lý thống nhất, giúp hàng hóa Việt Nam được quốc tế thừa nhận”, ông Duy nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Thành Duy, Phó Vụ trưởng Vụ Trung Đông - Châu Phi. Ảnh: Đức Toàn.
Việt Nam đã thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia (HALCERT) - cơ quan quản lý nhà nước, có chức năng cấp và giám sát chứng nhận Halal cho sản phẩm, dịch vụ trong nước. Đây là bước quan trọng để giảm chi phí cho doanh nghiệp và chủ động trong việc công nhận lẫn nhau với các tổ chức Halal uy tín trên thế giới
Cùng với đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành 6 tiêu chuẩn quốc gia về Halal và đang tiếp tục mở rộng sang các nhóm sản phẩm chủ lực như thực phẩm chế biến, đồ uống, dược phẩm và mỹ phẩm. Việc chuẩn hóa tiêu chuẩn quốc gia không chỉ giúp Việt Nam đồng bộ với hệ thống quốc tế mà còn nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt trong nông nghiệp và an toàn thực phẩm.
Để biến chính sách thành giá trị xuất khẩu thực tế, Bộ Ngoại giao đang đẩy mạnh ngoại giao kinh tế Halal, lồng ghép nội dung hợp tác vào các cuộc tiếp xúc cấp cao, Ủy ban hỗn hợp và tham vấn chính trị với nhiều quốc gia Hồi giáo như Ai Cập, Ả Rập Xê-út, Malaysia, Indonesia, UAE, Thổ Nhĩ Kỳ…
Đặc biệt, Hội nghị Halal toàn quốc tháng 10/2024 đã trở thành dấu mốc, quy tụ hơn 40 tỉnh thành, 200 doanh nghiệp cùng đại diện các tổ chức quốc tế, mở ra mạng lưới kết nối cho hàng loạt mặt hàng như gạo, cà phê, hạt điều, thủy sản, trái cây sấy và sản phẩm chế biến. “Nếu tận dụng tốt, Việt Nam có thể trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng Halal toàn cầu”, ông Duy khẳng định.
Ngoài xúc tiến thương mại, Bộ Ngoại giao cũng đẩy mạnh truyền thông hai chiều về Halal, chuẩn bị phát hành ấn phẩm đối ngoại đầu tiên về kinh tế Halal Việt Nam, cùng các chuyên san, tờ gấp và bản tin khu vực để quảng bá tiềm năng nông sản Việt và hướng dẫn doanh nghiệp về thị trường này.
Giới chuyên gia cho rằng, điều cốt lõi để Việt Nam khai thác hiệu quả thị trường Halal là chuyển từ cách tiếp cận “hàng hóa phù hợp Halal” sang “chuỗi sản xuất Halal toàn diện”, tức là đảm bảo tiêu chuẩn đạo Hồi xuyên suốt từ nguyên liệu, chế biến đến vận chuyển và phân phối.
Nếu hoàn thiện thể chế và chứng nhận trong nước, Việt Nam có thể mở rộng xuất khẩu sang 60 quốc gia Hồi giáo, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, Trung Đông và châu Phi, những khu vực có nhu cầu lớn về thực phẩm sạch, nông sản nhiệt đới, thủy sản, đồ uống và dược liệu tự nhiên.
“Halal không chỉ là tấm giấy chứng nhận. Đó là cách Việt Nam khẳng định chất lượng, văn hóa sản xuất có trách nhiệm và hướng tới một nền kinh tế toàn cầu bao trùm”, ông Nguyễn Thành Duy nói.

Thị trường Halal có quy mô được dự báo khoảng 10.000 tỷ USD. Ảnh minh họa.
Nâng chuẩn SPS là chìa khóa
Không chỉ là những chứng nhận, các quy định Halal ngày nay gắn liền với những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập thị trường Hồi giáo phải tuân thủ cùng lúc hai “hàng rào” kỹ thuật và tôn giáo.
TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, các nước Hồi giáo hiện áp dụng hệ thống quản lý Halal kết hợp chặt chẽ với quy định SPS của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là khung pháp lý toàn cầu cho phép các quốc gia thiết lập biện pháp vệ sinh, kiểm dịch để bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật, nhưng phải dựa trên cơ sở khoa học, công khai và minh bạch.
Việt Nam đã tích hợp nội dung này vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như Hiệp định CEPA với UAE và VIFTA với Israel, nhằm đảm bảo minh bạch thông tin, công nhận tương đương và tăng cường hợp tác kỹ thuật.
Theo ông Nam, điều doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý là hầu hết các quốc gia Hồi giáo đều có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật rất chặt chẽ. Ở khu vực vùng Vịnh, tổ chức GSO quy định toàn bộ chuỗi thực phẩm Halal phải tuân thủ từ nguyên liệu, chế biến, bảo quản đến phân phối.
Riêng Ả Rập Xê-út, cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (SFDA) không chỉ kiểm soát hàng hóa nhập khẩu mà còn có quyền sang nước xuất khẩu để kiểm tra cơ sở sản xuất, quy trình giết mổ và hồ sơ truy xuất nguồn gốc. Chỉ khi chứng minh được sự minh bạch và tuân thủ tuyệt đối các tiêu chuẩn này, hàng hóa mới được phép lưu hành.
Tại Indonesia, quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới, các quy định về giới hạn hóa chất, vi sinh vật và bệnh thủy sản được ban hành chi tiết đến từng nhóm sản phẩm. Ấn Độ kiểm soát tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh và kim loại nặng trong thực phẩm, yêu cầu toàn bộ quá trình chế biến phải tuân thủ HACCP.
Ai Cập đòi hỏi chứng nhận kiểm định do cơ quan nhà nước ủy quyền, trong khi Israel, dù không thuộc nhóm thị trường Halal, vẫn yêu cầu chứng nhận Kosher với hàng nhập khẩu. Những điều kiện này khiến chi phí tuân thủ tăng cao, nhưng cũng là thước đo năng lực hội nhập của nông sản Việt.
Để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản này, Văn phòng SPS Việt Nam đang phối hợp các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương... thúc đẩy hài hòa tiêu chuẩn trong nước với quốc tế, tăng cường trao đổi thông tin, công nhận tương đương giữa cơ quan kiểm dịch của Việt Nam và các nước Hồi giáo, đồng thời tham gia cơ chế đối thoại SPS trong khuôn khổ CEPA và VIFTA để xử lý nhanh các vướng mắc kỹ thuật.
Ông Nam cho rằng, việc “nâng chuẩn SPS” không chỉ giúp mở cửa thị trường Halal mà còn tăng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt ở mọi thị trường khó tính khác.
Khi các quy định về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và chứng nhận Halal được chuẩn hóa, Việt Nam sẽ có lợi thế rõ rệt trong việc tiếp cận mạng lưới thương mại Hồi giáo trị giá hàng nghìn tỷ USD. “Halal không chỉ là điều kiện để xuất khẩu, mà là thước đo về chất lượng, uy tín và trách nhiệm của nông sản Việt trên thị trường quốc tế”, ông Nam khẳng định.