Tôi xa Huế khi chưa kịp khắc vào kí ức những không gian miên viễn trầm tích, rêu phong của sắc thu. Chưa kịp nhặt những bông sứ rụng trắng sân chùa mà hương tĩnh lặng, linh thiêng, man mác buồn c vương trên đầu ngón tay. Huế xa quá! Nơi đây đất trời Tây Nguyên mùa thu không gõ cửa. Chỉ những cơn mưa dự vào phần thao thức nhớ quê. Đêm đêm, khi ngọn gió to trèo lên đỉnh núi hát những khúc ca du mục, từng sợi gió nhỏ đan vào nhau len qua mái nhà gỗ nơi có ánh đèn hột vịt leo lét và tiếng chày lục cục mẹ giã muối để dành ăn cơm nhắc nhở mùa thu của người xa xứ đang về.

Từ hạt muối mặn mòi vị biển làm nên các loại muối rang, muối xay, muối hầm, kết tinh vị mặn từ những vất vả, tâm huyết bám nghề của bao đời diêm dân miền Trung. Ảnh: Yêu bếp.
Hai từ cơm muối sẽ thật xa xôi lạ lẫm với những con người sinh ra và lớn lên nơi có sản vật phong phú, thiên nhiên giàu có. Quê tôi khúc ruột miền Trung nơi cái nắng bắt tay gian díu gió Lào, mưa về kéo theo cơn lũ thất bát, mất mùa. Nên từ độ trời rắc từng đợt mưa thu ngoài đồng, mấy mệ, mấy o trong nhà lo làm muối dành cho ngày bão lũ không đi chợ búa, không có tiền, ngồi trên tra* nhìn nước liếm láp đồng ruộng, thì có hũ muối chấm trong nhà. Củi, rơm ướt nhèm nhẹp nấu được nồi cơm mừng rơi nước mắt. Lúc này mấy lọ muối dự trữ hồi độ chớm thu sao mà thương mà quý. Cả nhà có cái mà ăn cho mặn mà trong ngày mưa thấu da thịt.
Để làm muối, mẹ hay chọn muối hầm vì không mặn như các muối khác. Người xứ tôi có trăm thứ muối nhưng quen thuộc nhất vẫn là muối sả, muối đậu, muối gừng, muối ớt xanh. Thỉnh thoảng mẹ làm cho bầy con hũ muối tôm, muối cá thu nhưng mấy muối đó xa xỉ lắm không phải lúc nào cũng có… Trong kí ức tôi, ruốc sả và muối sả vẫn là thứ neo giữ lòng tôi với Huế nhất, nên dù hít thở khí trời Tây Nguyên quá nửa đời người vẫn day dứt mãi không thôi.
Trong cái lạnh se se của đất trời, bên bếp lửa, mùi sả bằm, vàng thơm phức. Ớt đỏ bỏ hột xắt nhuyễn Mẹ chẳng khi nào để tôi bằm ớt vì sợ mắt tôi cay. Đứa con nhỏ ngồi giã dập đậu phụng. Tiếng chày lục cục như tiếng trống mùa thu ở một nơi xa xôi có hội làng, hội đình vọng về da diết. Sắc vàng của sả sao trên lửa dậy lên nỗi nhớ sắc vàng của lá màu thu nơi bến sông quê.

Muối sả - thứ muối dân dã, thân thuộc với người xứ Huế. Ảnh: Yêu bếp.
Sông Hương mùa này chắc nường** dềnh dàng lắm mênh mang lắm. Sông bình yên chảy qua làng mạc chảy vào tâm thức của người li hương. Vị ruốc vị quê vị của Huế. Sả, đậu đã vàng chỉ nêm thêm vị Huế vô thôi là ngào ngạt một miền nhớ. Trong trí nhớ của tôi. Những lúc khó, ruốc sả không có thịt, đứa con tự biết nhà hết tiền mùa trung thu đó cũng không mè nheo mẹ mua đèn ông sao, đèn con bướm, không đòi bánh dẻo hình con lợn, hình hoa sen.
Mẹ tôi vẫn giữ thói quen tách sả và đậu phụng làm hai phần. Phần nêm ruốc, đường với sả đậu phụng dành cho ăn mặn. Phần chay bỏ muối hầm thêm tí bột ngọt giã nhuyễn dùng cho ngày sóc ngày vọng. Nguyên liệu đơn giản vậy thôi nhưng để làm ra nó là biết bao cầu kì tinh tế từ khâu bào sả, sao sả đậu phụng, đảo bếp, canh lửa khi bỏ ruốc vào, vì nếu không khéo sẽ cháy. Tôi học mẹ nấu ăn từ những công việc nhỏ nhặt, từ sự quan sát đôi tay khéo léo, từ lời dặn dò mỗi khi mẹ đứng bếp. Một phần tính nữ trong tôi nhen lên từ gian bếp của mẹ.
Cơm muối của người lao động giản dị thân thuộc, là phong vị đức hạnh cần kiệm biết lo xa của người phụ nữ. Không cầu kì nhưng chứa đựng trong đó biết bao quan điểm, bài học sâu sắc. Là biểu hiện của triết lí hài hòa đủ đầy trong sự thiếu thốn; Là cách con người ứng phó hòa hợp với thiên nhiên... Cơm muối xuất hiện trong đời sống dân dã đến chốn hoàng cung mỹ lệ. Cơm muối là một phần trong các nghi lễ, yến tiệc cung đình, cơm muối xuất hiện trong các bữa ăn chay tịnh chốn hoàng cung. Dù cách chế biến công phu kĩ lưỡng nhưng nó vẫn biểu tượng tư tưởng “ ăn thanh - ở tịnh”. Để răn mình, sống gần hơn với sự khổ hạnh mà thần dân ngoài kia trải qua. Còn với tôi, cơm muối là mẹ, cơm muối là quê, cơm muối báo hiệu mùa thu.

Cơm muối xuất hiện trong đời sống dân dã đến chốn hoàng cung mỹ lệ, là một phần trong các nghi lễ, yến tiệc cung đình, trong các bữa ăn chay tịnh chốn hoàng cung. Ảnh: Yêu bếp.
Rồi khi xa quê, ở đất Tây Nguyên không thiếu rau củ, không lo lũ về nhưng mẹ vẫn giữ thói quen làm muối khi ngày hạ đã mãn để tôi giữ lại quê trong lòng. Cứ thế mùa thu trong tim người xa quê không khởi lên bởi những sắc vàng của lá, màu đỏ còn sót của cây bông ngô đồng. Tôi từng xao nhãng hàng long não trên đường Lê Lợi dọc bờ Nam sông Hương, chẳng giữ mãi hương thanh trà trong vườn cũ của ngoại. Có đôi khi chẳng thể hình dung sắc nước sông Hương vào thu, cả rặng tre in bóng. Chỉ thường trực nỗi nhớ những món muối của mẹ với ớt xanh nồng cay mắt: Buổi sáng đi học ăn vắt cơm có muối gừng, bên khói bếp chiều mưa hai mẹ con với vắt cơm muối sả… Trái ổi, trái xoài chấm muối ớt sả lúc cơn thèm ăn vặt… chỉ vậy thôi mà tôi neo mình với quê dù chất giọng đã lợt lạt, phương ngữ cũng mất chỉ tâm hồn còn Huế còn dư vị quê hương.

Chẳng thể nào quên mùa thu khởi lên từ gian bếp của mẹ. Ảnh: Yêu bếp.
Ngày nay, muối tôm, muối vừng muối sả người ta bán sẵn từ các cửa hàng uy tín đến chợ dân sinh. Nhưng với tôi đó đó chỉ là gia vị. Chỉ có muối của mẹ mới là vị nhớ vị yêu. Tôi chạm vào mùa thu của mình không bằng hương sắc hay không gian. Tôi chạm khẽ vào thu bằng những hũ muối chấm cơm của mẹ. Thời gian đưa tôi đi qua những mùa thu tóc xanh thời thiếu nữ đến nay đà lấm tấm sợ bạc. Đã nếm qua biết bao món ăn đặc sản vùng miền. Đã đọc bao nhiêu trang viết về mùa thu lãng mạn xuyến xao… Vậy mà chẳng thể nào tôi quên mùa thu khởi lên từ gian bếp của mẹ, có khói có phong vị quê nhà thương một đời chưa dứt.
* tra: bờ ruộng
** nường: nàng ấy (biểu thị sự dễ thương)