| Hotline: 0983.970.780

Bảo vệ rừng gắn với sinh kế, hướng đi bền vững cho miền núi

Thứ Hai 29/09/2025 , 13:18 (GMT+7)

Thực hiện nghiêm quy định bảo vệ, phát triển rừng đang mở hướng sinh kế bền vững, giúp đồng bào miền núi Quảng Ngãi thoát nghèo, giảm nghèo gắn với giữ rừng.

Để hiểu rõ hơn về những kết quả đạt được trong công tác bảo vệ và phát triển rừng gắn với giảm nghèo bền vững tại Quảng Ngãi, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi.

Thưa ông, ông có thể khái quát những kết quả nổi bật mà Quảng Ngãi đạt được trong việc triển khai các quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng thời gian qua?

Tỉnh Quảng Ngãi sau sáp nhập có diện tích tự nhiên hơn 1,48 triệu ha, trong đó quy hoạch cho lâm nghiệp 1,14 triệu ha, diện tích đất có rừng 881.641ha (rừng tự nhiên 659.059ha, rừng trồng 222.582ha). Diện tích đất chưa có rừng còn khoảng 259.000ha.

Thời gian qua, tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai hiệu quả các quy định của pháp luật về bảo vệ rừng, nhờ đó, các vụ xâm hại rừng quy mô lớn không còn xảy ra trên địa bàn. Ảnh: Lê Khánh.

Thời gian qua, tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai hiệu quả các quy định của pháp luật về bảo vệ rừng, nhờ đó, các vụ xâm hại rừng quy mô lớn không còn xảy ra trên địa bàn. Ảnh: Lê Khánh.

Những năm gần đây, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nổi bật trước hết là sự lãnh đạo xuyên suốt của Tỉnh ủy, tiếp đó là chỉ đạo, vận hành của UBND tỉnh, và trách nhiệm của các chủ rừng ngày càng được đề cao. Các chủ rừng ở khu vực phía Tây, nhất là nhóm II, đã có nguồn lực từ dịch vụ môi trường rừng để triển khai nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Chính quyền cấp xã cũng phát huy tốt vai trò quản lý tại chỗ, còn lực lượng kiểm lâm thường xuyên tham mưu kịp thời cho cấp có thẩm quyền những văn bản chỉ đạo xử lý tình huống phát sinh. Nhờ vậy, diện tích rừng bị phá đã được khống chế, tình trạng xâm hại, khai thác quy mô lớn không còn.

Một điểm đáng ghi nhận nữa là hiệu quả từ sự đồng nhất chính sách. Trước đây, các chính sách lâm nghiệp còn dàn trải, nhiều đầu mối, khó triển khai. Nay hệ thống chính sách tập trung, rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương và chủ rừng thực hiện.

Bên cạnh đó, Quảng Ngãi cũng đã ghi dấu bằng mô hình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ rừng. Điển hình là việc trồng sâm Ngọc Linh trên diện tích quy hoạch hơn 16.000ha. Khi người dân được giao đất, cho thuê đất trồng sâm, đồng nghĩa công tác quản lý rừng được củng cố chặt chẽ hơn. Có rừng mới trồng được sâm, và muốn trồng sâm thì phải bảo vệ rừng. Đây là mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, vừa bảo tồn sinh thái vừa tạo ra giá trị kinh tế lớn.

Ông có thể chia sẻ một số mô hình tiêu biểu về phát triển sinh kế dưới tán rừng, giúp bà con nâng cao thu nhập, thoát nghèo bền vững?

Quảng Ngãi có nhiều lợi thế từ tài nguyên rừng và hệ sinh thái đặc hữu, nhất là ở phía Tây. Luật Lâm nghiệp, Luật Đa dạng sinh học và các chính sách đầu tư đã mở ra hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế dưới tán rừng. Hiện nay, trọng tâm vẫn là trồng dược liệu, đặc biệt là sâm Ngọc Linh – loài cây quý, có giá trị kinh tế rất cao. Tuy nhiên, đây là cây trồng khó, đòi hỏi điều kiện sinh thái đặc thù và chi phí đầu tư lớn, nên cần thêm chính sách tài chính, bảo hiểm để hỗ trợ người dân.

Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi trao đổi với phóng viên về hiệu quả của công tác bảo vệ rừng ở địa phương trong những năm qua. Ảnh: Phạm Huy.

Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi trao đổi với phóng viên về hiệu quả của công tác bảo vệ rừng ở địa phương trong những năm qua. Ảnh: Phạm Huy.

Ngoài sâm Ngọc Linh, một số địa phương phía Tây của tỉnh như Đăk Lây, Tu Mơ Rông đang phát triển các loại cây dược liệu dài ngày khác, đặc biệt là cây quế, ít tốn công chăm sóc nhưng giá trị kinh tế ổn định. Năm nay, dự kiến sẽ liên kết trồng khoảng 50ha quế tại xã Măng Ri để tạo thêm nguồn thu nhập cho bà con. Một số loại dược liệu khác như sa nhân cũng được trồng nhưng diện tích còn hạn chế.

Bên cạnh dược liệu, người dân đang dần chuyển sang trồng các loại cây bản địa có giá trị như cây dổi lá to (bò ma) – vừa lấy gỗ, vừa lấy hạt, có thể khai thác sau 5–7 năm. Đây là hướng đi thay thế cây keo, bạch đàn vốn hiệu quả không cao và phụ thuộc lớn vào thị trường. Ngoài ra, mô hình trồng tre sinh khối cũng bước đầu cho kết quả tích cực. Các mô hình này cho thấy, nếu biết tận dụng lợi thế rừng, kết hợp giữa khai thác hợp lý và bảo vệ sinh thái, bà con hoàn toàn có thể tạo sinh kế ổn định, từng bước thoát nghèo và làm giàu bền vững.

Trong quá trình triển khai, Chi cục gặp những khó khăn, vướng mắc gì thưa ông?

Khó khăn lớn nhất hiện nay là nhu cầu đất sản xuất nông nghiệp tăng cao. Giá trị của các loại cây như cà phê, sầu riêng, sắn… đang hấp dẫn, khiến nguy cơ phá rừng làm nương rẫy vẫn tiềm ẩn. Thứ hai là nhu cầu gỗ rừng tự nhiên trong dân còn nhiều. Thói quen sử dụng vật liệu thay thế gỗ chưa hình thành phổ biến, dẫn đến một số trường hợp khai thác trái phép vẫn diễn ra, dù quy mô nhỏ lẻ.

Mô hình trồng sâm Ngọc Linh dưới tán rừng đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân khu vực miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Ảnh: Lê Khánh.

Mô hình trồng sâm Ngọc Linh dưới tán rừng đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân khu vực miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Ảnh: Lê Khánh.

Một vướng mắc khác là việc phát triển sâm Ngọc Linh thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Người dân đôi khi lén lút vào rừng phát dọn để trồng, không có hướng dẫn kỹ thuật, tiềm ẩn nguy cơ phá vỡ cấu trúc sinh thái. Mặc dù công tác phối hợp giữa chính quyền, kiểm lâm và người dân đã tốt hơn, nhưng vẫn cần siết chặt, đặc biệt là việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm trực tiếp của cộng đồng sống gần rừng.

Vậy trong thời gian tới, Chi cục có những giải pháp nào để gắn bảo vệ rừng với nâng cao sinh kế người dân miền núi?

Trước hết, đối với diện tích rừng đã giao cho người dân, cần khai thác tối đa quyền lợi theo quy định: từ gỗ, lâm sản, dược liệu dưới tán rừng đến nông – lâm kết hợp. Tuy nhiên, mỗi diện tích rừng có đặc thù cấu trúc khác nhau theo tiểu vùng khí hậu, vì vậy, đòi hỏi người dân phải chủ động linh hoạt trong sản xuất nông lâm kết hợp cũng như trồng các loại cây dược liệu.

Một quyền lợi khác là được phát triển kinh tế lâm nghiệp trên diện tích chưa có rừng. Nhưng thực tế, ở phía Tây, ít hộ mạnh dạn triển khai do tâm lý trông chờ hỗ trợ Nhà nước. Vì vậy, chúng tôi đã và sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi nhận thức, khuyến khích bà con chủ động hơn trong phát triển kinh tế dưới tán rừng.

Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi. Ảnh: Lê Khánh.

Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi. Ảnh: Lê Khánh.

Ở góc độ quản lý, chúng tôi đặt kỳ vọng lớn vào dịch vụ môi trường rừng. Nếu Chính phủ nâng mức chi trả từ 36 đồng lên 50 đồng/kWh điện, nguồn quỹ này sẽ tăng, giúp tăng định suất khoán bảo vệ rừng. Khi người dân sống được bằng thu nhập từ rừng, họ sẽ gắn bó, bảo vệ rừng tốt hơn. Đây là mấu chốt để bảo vệ và phát triển rừng bền vững.

Chi cục có kiến nghị gì để hoàn thiện chính sách, tạo thêm nguồn lực cho công tác bảo vệ rừng gắn với giảm nghèo bền vững?

Trước hết, chúng tôi đề xuất Tỉnh ủy, UBND tỉnh sớm cho chủ trương xây dựng đề án và ban hành nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững, khai thác giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng gắn với Sâm Ngọc Linh. Đối với Trung ương, chúng tôi kiến nghị xem xét đưa sâm Ngọc Linh ra khỏi danh mục thực vật nguy cấp, quý hiếm ưu tiên bảo vệ. Khi đó, việc đầu tư, phát triển loài cây đặc hữu này sẽ thuận lợi hơn, mang lại lợi ích kinh tế to lớn, đồng thời củng cố mục tiêu bảo vệ rừng gắn với giảm nghèo bền vững ở miền núi Quảng Ngãi.

Xin cảm ơn ông!

Xem thêm