Thời khắc Mít tinh ngày Tái Thành lập tỉnh Bắc Kạn 1/1/1997 (ảnh Mạnh Tuấn).
Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, tỉnh Bắc Kạn chính thức được tái lập và đi vào hoạt động ngày 1/1/1997. Với điểm xuất phát thấp, chủ yếu là thuần nông tự cung tự cấp, thu ngân sách chưa đáp ứng 10% nhu cầu chi, nhiều tập tục trong đời sống xã hội còn lạc hậu…
Trải qua 20 năm xây dựng phát triển, với sự nỗ lực của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, cùng sự quan tâm, giúp đỡ của Trung ương, Bắc Kạn đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, chất lượng đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng GRDP (theo giá cố định 1994) bình quân giai đoạn 1997 - 2015 của tỉnh Bắc Kạn là 11,5%/năm (giai đoạn 1997 - 2010 tăng trưởng bình quân 10,8%/năm; giai đoạn 2011 - 2015 tăng trưởng bình quân 13,5%/năm). Trong đó: Khu vực nông - lâm - thủy sản tăng bình quân 7,3%/năm; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 16,6%/năm; khu vực dịch vụ tăng 16%/năm. Đến năm 2015, tổng sản phẩm GRDP (theo giá hiện hành) của tỉnh đạt trên 7.603 tỷ đồng, dự kiến năm 2016 đạt 8.320 tỷ đồng, ước tăng gấp 2,0 lần so với năm 2010, gấp 5,5 lần so với năm 2005 và gấp 23,5 lần so với năm 1997.
Theo đó, GRDP bình quân đầu người cải thiện đáng kể. Nếu như năm 1997, GRDP bình quân đầu người chỉ đạt 1,25 triệu đồng/người, tăng lên 1,75 triệu đồng/người năm 2000, tăng lên 3,5 triệu đồng/người năm 2005, lên 13,85 triệu đồng/người năm 2010 và đạt trên 24,4 triệu đồng năm 2015; dự kiến năm 2016 đạt 26,5 triệu đồng/người, tăng gấp 21,2 lần so với năm 1997.
Sau 18 năm nỗ lực phấn đấu, Bắc Kạn đã được công nhận Thành phố (ảnh Mạnh Tuấn).
Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, tỉnh đã từng bước hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, gắn với chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm, hình thành một số diện tích cây trồng tập trung mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2016 ước đạt 184.362tấn, đạt 108,4% kế hoạch, tăng gấp 2 lần so với năm 1997.
Các loại cây trồng khác cũng phát huy được thế mạnh với vùng trồng dong riềng 800ha; thuốc lá 1.200ha; cam quýt 2.486ha; hồng không hạt 827ha; có 5 sản phẩm được công nhận chỉ dẫn địa lý và chứng nhận nhãn hiệu tập thể bao gồm: Nhãn hiệu tập thể gạo bao thai Chợ Đồn, nhãn hiệu tập thể miến dong Bắc Kạn; Khẩu Lua Lếch (nếp thơm) Ngân Sơn; chỉ dẫn địa lý hồng không hạt và chỉ dẫn địa lý quýt Bắc Kạn.
Đặc biệt, sản xuất lâm nghiệp đã có bước phát triển mạnh, tổng diện tích rừng trồng mới hàng năm đều vượt kế hoạch được giao. Trong giai đoạn 1997 -2016, tổng diện tích rừng trồng mới toàn tỉnh đạt trên 125.000ha đạt độ che phủ rừng hiện đạt trên 70%, trở thành một trong những tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất toàn quốc.
Mùa lúa chín tại huyện vùng cao Pác Nặm (ảnh Mạnh Tuấn).
Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch từng bước được đầu tư xây dựng. Đến nay, cả tỉnh có 211 cơ sở lưu trú, trong đó có 22 khách sạn. Dự kiến năm 2016 đạt 435.000 lượt khách, tăng gấp 16 lần so với năm 2000. Doanh thu ngành du lịch hàng năm tăng bình quân 29%/năm.
Hồ Ba Bể - luôn hấp dẫn du khách (ảnh Mạnh Tuấn)
Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, thông tin liên lạc, nước sạch, trường học, trạm y tế, các cơ sở dịch vụ,…được đầu tư. Hiện nay, hệ thống quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị, đường xã và đường thôn xóm có tổng chiều dài 6.893,22km, trong đó: Đường Quốc lộ 326,78km; đường tỉnh lộ 503,4km; 84% thôn có đường giao thông đến trung tâm thôn.
Tuyến đường Đèo Giàng – Vũ Muộn nối liền nút thắt của 2 huyện Na Rì và Bạch Thông
Đến năm 2015, trên 95,2% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia, dự ước năm 2016 đạt 96%.
Mạng lưới viễn thông và internet tiếp tục phát triển, nâng cao năng lực với chất lượng cao và ổn định. 100% xã, phường, thị trấn có sóng điện thoại di động, 100% xã có truyền dẫn cáp quang.
Hiện nay, 100% cán bộ công chức các cơ quan trên địa bàn tỉnh có điều kiện sử dụng thư điện tử và khai thác thông tin trên mạng Internet phục vụ cho công việc; 100% dân số được tiếp cận các thông tin báo chí.
Tỉnh đã xây dựng mới và sửa chữa hệ thống kè bờ sông, hệ thống hồ chứa với 955 công trình thủy lợi lớn nhỏ, trong đó: 35 công trình hồ chứa và 742 đập dâng; 144 hệ thống kênh mương, 10 xi phông; 24 trạm bơm điện phục vụ cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt.
Có 95% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, tăng 15% so với năm 2010; khu vực thành thị 100% dân cư được cung cấp nước sạch.
Đến năm 2016, tỉnh Bắc Kạn còn 63 xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, giảm 40 xã, phường so với năm 2000; Tỷ lệ hộ nghèo 11,6% vào năm 2015. Dự ước năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm 2 - 2,5%.
Giai đoạn 2011 - 2015, toàn tỉnh tạo được 24.586 việc làm mới cho người lao động, bình quân đạt 4.917 lao động/năm, tăng hơn 2.700 lao động so với giai đoạn 1997-1999. Đến năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống còn 3,0%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng lên 30%.
Tỉnh đã tổ chức tốt các chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công. Công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. Đến nay, tỉnh đã có 115 xã (94%) đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ và khám, chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế công lập; 100% xã phường đều có quỹ bảo trợ trẻ em.
Mạng lưới giáo dục phát triển đến tận các thôn bản, hầu hết các xã có trường mầm non, trường tiểu học, 100% các huyện, thành phố có trường THPT và hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú được củng cố, phát triển; mạng lưới trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng phát triển mạnh, năm 2016 cả tỉnh có 352 trường học các cấp, tăng 175 trường so với năm 1997.
Hệ thống y tế được củng cố và phát triển, Bệnh viện đa khoa tỉnh đang được đầu tư xây mới với trang thiết bị hiện đại; 8/8 huyện, thành phố có bệnh viện đa khoa; 122 xã, phường, thị trấn có trạm y tế, trong đó nhiều trạm được đầu tư xây mới hoặc nâng cấp và bổ sung trang thiết bị. Đến hết năm 2015, toàn tỉnh có 96/122 xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế (đạt 78,7%); đạt 13,25 bác sỹ/vạn dân; 1.423/1.423 thôn, bản, tổ phố có nhân viên y tế thôn bản hoạt động. Đến năm 2016, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng theo cân nặng chỉ còn 18%, giảm 5,5% so với năm 2010 và giảm 15% so với năm 1997.
Bệnh viện Đa khoa Bắc Kạn được đưa vào sử dụng nhân dịp chào mừng 20 năm Tái lập tỉnh.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được triển khai rộng khắp và có hiệu quả ở các địa phương, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, anh ninh quốc phòng...
Ghi nhận thành tích xuất sắc đạt được trong những năm qua, ngày 31/10/2016, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đã ban hành Quyết định số 2281/QĐ-CTN tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Nhân dân và cán bộ tỉnh Bắc Kạn.