Chính sách "mở lối" nhưng gian khó còn chồng chất
Con đường đất đỏ dẫn vào xã Võ Miếu, tỉnh Phú Thọ những ngày mưa lầy lội như níu chân người. Đồi núi hun hút nối nhau, mái nhà nhỏ nép mình bên sườn dốc, tiếng trẻ ríu rít xen lẫn nhịp bước mưu sinh lặng lẽ. Ở nơi miền quê còn hoang sơ này, cái nghèo dường như vẫn bám riết như lớp sương mờ sáng sớm, len lỏi trong từng nếp nhà, từng dáng người lam lũ.
Thế nhưng, giữa bức tranh ấy, vẫn thấp thoáng những mầm xanh của sự đổi thay: từ ruộng lúa của hợp tác xã, từ đồi keo phủ bóng mát, đến những nương chè xanh trải dài.
Những nương chè xanh trải dài ở Võ Miếu, điểm sáng của sự đổi thay trong bức tranh còn nhiều gian khó nơi miền trung du. Ảnh: Hồng Ngọc.
Ông Trần Văn Tình, Phó Chủ tịch UBND xã Võ Miếu, chia sẻ rằng trong hai năm qua, nhiều chính sách giảm nghèo đã được triển khai: hỗ trợ con giống, cây giống, vật nuôi, cấp vốn vay sản xuất, mở lớp tập huấn kỹ thuật, cùng các dự án y tế, giáo dục. Nhờ đó, đời sống bà con dần cải thiện. “Trước đây nhà cửa tạm bợ, con cái ăn học thiếu thốn. Nay nhờ vay vốn, có việc làm tại doanh nghiệp, cuộc sống được nâng lên, các cháu được học hành đầy đủ hơn”, ông nói.
Ông Trần Văn Tình, Phó Chủ tịch UBND xã Võ Miếu, chia sẻ về những chính sách giảm nghèo và định hướng phát triển bền vững của địa phương. Ảnh: Hồng Ngọc.
Tuy nhiên, khó khăn vẫn chất chồng. “Đường giao thông nhiều nơi xuống cấp, mùa mưa có đoạn ngập không đi lại được. Công trình nước sạch thiếu, doanh nghiệp đầu tư chưa nhiều. Nếu hạ tầng chưa đồng bộ, người dân khó mà có cơ hội thoát nghèo bền vững”, ông Tình thẳng thắn chia sẻ.
Bên cạnh đó, không chỉ dựa vào cây lúa truyền thống, người dân Võ Miếu đã mạnh dạn đưa thêm khoai tây, dưa, ớt, măng… vào sản xuất. Ông Hà Khương Duy, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Võ Miếu cho biết: “Sản lượng hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu nhà máy. Ví dụ, khoai tây mới đạt dưới 10 tấn, trong khi nhà máy cần tới 25 tấn.”
Sản phẩm gạo ST25, TĐ25 do HTX Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Võ Miếu phát triển, được anh Hà Khương Duy giới thiệu như bước đi mới trong nâng cao giá trị nông sản. Ảnh: Hồng Ngọc.
Những con số khập khiễng ấy phản ánh rõ một thực tế: bà con cần doanh nghiệp đồng hành để đi đường dài. “Mong có doanh nghiệp liên kết xây dựng chuỗi tiêu thụ ổn định, đầu tư máy móc để HTX mở rộng sản xuất, phát triển bền vững hơn”, ông Duy nhấn mạnh.
Trên những cánh đồng còn lấm lem bùn đất, người nông dân Võ Miếu không chỉ gieo mạ, trồng lúa, mà còn gieo vào đó niềm tin rằng một ngày nào đó, công sức của họ sẽ được trả bằng sự ổn định và thịnh vượng.
Gian khó mưu sinh và hy vọng nảy mầm
Trong căn nhà nhỏ dưới chân đồi, chú Nguyễn Văn Sơn, 58 tuổi, cả đời gắn bó với cây rừng, chia sẻ: “Hơn 5 héc ta keo là nguồn sống chính của gia đình. Trước đây 4-5 năm đã khai thác, nhưng nhờ chương trình chuyển hóa rừng gỗ lớn, chu kỳ kéo dài 10-12 năm, sản lượng và giá trị đều tăng gấp đôi. Nhưng để chờ đủ mười năm thì nhiều gian nan lắm: sâu bệnh, bão gió, giá cả thất thường, lại chẳng có hợp đồng tiêu thụ dài hạn.”
Đồi keo của hộ gia đình ông Nguyễn Văn Sơn ở xã Võ Miếu, một trong những sinh kế phổ biến của bà con vùng trung du Phú Thọ. Ảnh: Hồng Ngọc.
Ngoài keo, chú còn trồng hơn một héc ta chè. Cây chè cho thu đều 4 vụ chính trong năm, nếu làm tốt có thể đạt tới 7 tấn/ha/lứa. Nhưng chè lại tốn công chăm sóc, trong khi keo ít công nhưng phải đợi cả chục năm mới có thu. “Keo thì cho một khoản ‘tiền cục’ khi đến kỳ, còn chè giúp chi tiêu thường xuyên. Thế nhưng, cả hai đều bấp bênh nếu không có liên kết với doanh nghiệp”, chú Sơn thở dài.
Ánh mắt xa xăm của ông Nguyễn Văn Sơn, người cả đời bám đất, bám rừng ở Võ Miếu, chất chứa nhiều trăn trở. Ảnh: Hồng Ngọc.
Điều chú mong mỏi cũng giản dị: vốn vay ưu đãi dễ tiếp cận, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, và hỗ trợ kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh. Những mong ước ấy, dẫu nhỏ bé, lại là chìa khóa giúp hộ nông dân nơi đây bám đất, bám rừng, nuôi hy vọng thoát nghèo.
Cánh cửa mở ra từ những cái bắt tay
Như nhiều vùng trung du miền núi khác của Phú Thọ, bài toán lớn nhất không còn nằm ở sự cần cù của người dân hay chất lượng đất đai, mà ở sự thiếu vắng của những bàn tay doanh nghiệp. Chính quyền xã có thể hỗ trợ giống, vốn, tập huấn; HTX có thể tổ chức sản xuất; nhưng nếu sản phẩm vẫn phải bán cho thương lái ngắn hạn, thì mọi nỗ lực đều dễ quay về điểm xuất phát.
Liên kết doanh nghiệp - nông dân không chỉ giúp ổn định đầu ra, mà còn mở cánh cửa tiếp cận công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng, thị trường chế biến sâu. Một cơ sở thu mua đặt ngay trong xã có thể tạo việc làm cho hàng chục lao động, giúp hàng trăm hộ yên tâm sản xuất. Ngược lại, doanh nghiệp cũng có lợi khi tiếp cận vùng nguyên liệu ổn định, giảm chi phí logistics và rủi ro đầu vào.
Phó Chủ tịch UBND xã Võ Miếu, ông Trần Văn Tình, từng nhấn mạnh rằng “khi đường sá thuận lợi, doanh nghiệp mới về đầu tư, hàng hóa mới có thị trường, người dân mới có cơ hội phát triển”. Mong muốn giản dị ấy phản ánh rõ mối liên hệ then chốt giữa hạ tầng - doanh nghiệp - sinh kế. Đó cũng là hướng đi bền vững nhất cho công cuộc xoá đói giảm nghèo ở vùng trung du: tạo ra một chuỗi khép kín, nơi doanh nghiệp và người dân cùng đi trên con đường phát triển chung.
Ở Võ Miếu, cái nghèo không chỉ hiện diện trong bữa cơm đạm bạc, mà còn nằm trên những con đường lầy lội, trong giọt nước sạch khan hiếm, trong ánh nhìn lo âu của người mẹ ngóng con đi học xa. Nhưng bên cạnh đó, cũng có những tín hiệu mới: mô hình chuyển hóa rừng gỗ lớn, HTX nông nghiệp mở hướng liên kết, những lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp được tổ chức…
Và quan trọng hơn cả, là niềm tin của những người nông dân như chú Sơn: “Cứ có vốn, có kỹ thuật, có doanh nghiệp đứng ra bao tiêu, thì bà con yên tâm trồng rừng, trồng chè, cái nghèo cũng sẽ dần lùi thôi.”
Võ Miếu vẫn nghèo, vẫn hoang sơ, nhưng giữa những thửa ruộng xanh rì và đồi keo vươn cao, ta thấy lấp lánh một niềm hy vọng. Niềm hy vọng rằng, cái nghèo nơi đây một ngày nào đó sẽ chỉ còn là ký ức buồn trong quá khứ.















