Trong cuộc đua hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon, những quốc gia có diện tích rừng lớn như Việt Nam đang đứng trước cơ hội quan trọng: tận dụng “tài sản xanh” để giảm phát thải và huy động nguồn lực phát triển kinh tế.
Rừng đang ngày càng được nhìn nhận như một trụ cột quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính. Ảnh: Tiến Trung.
Rừng đang ngày càng được nhìn nhận như một trụ cột quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính. Theo thông tin tại Hội thảo tham vấn “Cơ hội thương mại tín chỉ các-bon rừng tại Việt Nam” được tổ chức trong khuôn khổ Hỗ trợ Kỹ thuật “Phân tích các cơ hội giao dịch tín chỉ các-bon rừng tại Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới tài trợ và Liên danh tư vấn gồm Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và môi trường (VNEEC) và Tập đoàn South Pole thực hiện, tín chỉ các-bon rừng đang trở thành nguồn tài chính quan trọng, giúp hỗ trợ công tác bảo vệ và phục hồi rừng, đồng thời đóng góp tích cực vào bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao sinh kế cho người dân sống dựa vào rừng.
Rừng là trụ cột trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính
Trong khuôn khổ thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) với Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã tạo lập được 16,2 triệu tCO₂tđ giảm phát thải giai đoạn 2018-2019, được thẩm định độc lập và xác nhận đủ điều kiện giao dịch. Trong số này, 10,3 triệu tCO₂tđ đã được giao dịch, 1 triệu tCO₂tđ tiếp tục được Chính phủ cho phép chuyển nhượng bổ sung theo Nghị quyết 261/NQ-CP ngày 29/8/2025, và khoảng 4,9 triệu tCO₂tđ còn lại có thể tiếp tục được xem xét khai thác thương mại trong tương lai.
Chi trả dịch vụ môi trường rừng và tới đây là chi trả từ tín chỉ các-bon rừng đang dần thay đổi nhận thức của người dân về bảo vệ rừng. Ảnh: Minh Hà.
Song song đó, các chương trình tín chỉ các-bon rừng như giảm phát thải Tây Nguyên - Nam Trung Bộ dự kiến tạo thêm khoảng 20 triệu tCO₂tđ giai đoạn 2021-2025, với 5,15 triệu tCO₂tđ đã được lên kế hoạch chuyển nhượng cho tổ chức Emergent. Những con số này cho thấy tiềm năng rất lớn để Việt Nam thúc đẩy thương mại carbon rừng nhằm hỗ trợ ngân sách lâm nghiệp và quá trình chuyển đổi xanh.
Mặc dù lượng tín chỉ hiện có và sẽ tạo lập trong tương lai tương đối lớn, việc đưa được chúng ra thị trường vẫn còn nhiều rào cản. Theo phân tích từ nhóm tư vấn của VNEEC và South Pole, có ba nhóm “điểm nghẽn” lớn đang cản trở hoạt động thương mại hóa gồm: khung pháp lý và thể chế chưa đầy đủ; hạ tầng kỹ thuật thị trường các-bon còn hạn chế; năng lực triển khai tại cơ sở còn yếu.
Hiện Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện hệ thống nghị định về thị trường các-bon trong nước, trao đổi tín chỉ quốc tế, dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon rừng, cùng hệ thống đăng ký tín chỉ các-bon quốc gia. Đây được xem là nền tảng quan trọng đảm bảo minh bạch, đáp ứng yêu cầu quốc tế và thu hút đối tác mua tiềm năng.
Bên cạnh đó, hệ thống MRV (Đo đạc - Báo cáo - Thẩm định) vẫn cần được chuẩn hóa trên phạm vi rộng, nhằm bảo đảm độ tin cậy và khả năng truy xuất nguồn gốc tín chỉ khi tham gia thị trường toàn cầu.
Tín chỉ các-bon rừng có thể trở thành động lực tài chính xanh cho ngành lâm nghiệp. Ảnh: Tiến Trung.
Sân chơi nhiều cạnh tranh của thị trường các-bon
Kết quả nghiên cứu được đưa ra tại hội thảo cho thấy mức độ phù hợp và giá trị tín chỉ các-bon phụ thuộc lớn vào thời gian khởi tạo và cơ chế thị trường tham gia. Các tín chỉ thuộc giai đoạn 2018-2019 có thể không đáp ứng yêu cầu của thị trường bắt buộc hoặc các cơ chế Điều 6 Paris, nhưng vẫn có thể giao dịch trên thị trường tự nguyện. Tuy nhiên, yếu tố thời gian sẽ ngày càng trở thành rào cản khi tín chỉ quá cũ sẽ giảm giá trị và khó được chấp nhận.
Ngược lại, các tín chỉ tạo lập từ năm 2021 trở đi có cơ hội rộng hơn ở các thị trường bắt buộc như Điều 6.2 và CORSIA dành cho lĩnh vực hàng không, với mức giá tốt hơn đáng kể.
Theo khảo sát, nhiều tập đoàn và tổ chức quốc tế như Amazon, Eni và Liên minh LEAF đã tiếp xúc và bày tỏ quan tâm đến tín chỉ các-bon rừng Việt Nam. 7/15 tổ chức khảo sát mong muốn trao đổi sâu hơn với Chính phủ Việt Nam về việc mua lượng kết quả giảm nhẹ này.
Sự quan tâm của thị trường là tín hiệu đáng khích lệ, nhưng đi cùng với đó là áp lực nâng cao năng lực cạnh tranh của tín chỉ các-bon rừng Việt Nam trên quy mô quốc tế.
Việt Nam đặt mục tiêu thí điểm thị trường các-bon trong nước từ năm 2025 và vận hành đầy đủ năm 2029. Đây là mốc quan trọng quyết định khả năng tận dụng tín chỉ hiện có và duy trì sức hút với thị trường quốc tế.
Nếu chậm tiến độ, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội giao dịch tín chỉ đã tạo lập, mất nguồn lực tài chính phục vụ bảo vệ và phát triển rừng, giảm tính cạnh tranh trên thị trường các-bon toàn cầu và khó đạt mục tiêu trung hòa các-bon như cam kết quốc tế.
Ngược lại, nếu nắm bắt kịp thời và đúng hướng, tín chỉ các-bon rừng có thể trở thành động lực tài chính xanh cho ngành lâm nghiệp và nền kinh tế nói chung.
Để đạt mục tiêu trung hòa các-bon vào giữa thế kỷ, tín chỉ các-bon rừng phải trở thành một phần cốt lõi trong chiến lược giảm phát thải quốc gia. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta sớm vượt qua những rào cản về thể chế, hạ tầng và năng lực triển khai.
Việt Nam đang ở thời điểm “vàng” để khẳng định vai trò của mình trong thị trường các-bon toàn cầu. Với hơn 14,7 triệu ha rừng, những cánh rừng Việt Nam không chỉ là “lá chắn xanh” trước biến đổi khí hậu mà còn là tài sản có thể chuyển hóa thành nguồn lực kinh tế mới nếu chúng ta biết cách khai thác hiệu quả.




























