“Thâm canh” quá khứ
Tôi muốn được nhà văn Hoàng Đăng Khoa và nhà thơ Đoàn Văn Mật chia sẻ cho câu hỏi đầu tiên: Văn chương trong quân đội những năm gần đây đề tài về người lính được lựa chọn là đời sống đương đại của người lính, hay đề tài quá khứ?
Nhà văn Hoàng Đăng Khoa: Trong giới hạn sự đọc của tôi thì những tác phẩm văn học viết về đề tài người lính những năm gần đây đa phần là “thâm canh” quá khứ, một quá khứ chiến tranh bộn bề, mặc dù đã im tiếng súng hơn 40 năm, nhưng sẽ mãi mãi còn dang dở.
Đến đây, tôi nhớ đến tên một truyện ngắn của nhà văn Bảo Ninh - “Chuyện xưa, kết đi được chưa?”. Câu trả lời là: Câu chuyện về cuộc chiến tranh Việt Nam ở thế kỷ XX chưa thể “kết” được, nó còn “ám” rất lâu những ai can dự vào nó, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Vậy nên, đề tài chiến tranh và người lính trong văn học Việt Nam chưa thể xong xuôi, hoàn tất, nó vẫn là mảnh đất phong nhiêu, chứa đựng trong nó nhiều tầng vỉa, nhiều nguồn “chưa ai khơi”.
Nguyễn Ngọc Thuần, một nhà văn 7x lớn lên sau chiến tranh đã không cưỡng lại trước hấp lực của đề tài này, và truyện dài "Cơ bản là buồn" (NXB Trẻ, 2014) của anh có thể coi là một khúc vĩ thanh đầy ám gợi về chiến tranh. Nhà văn này chọn lập trường là “phe nước mắt” để góp phần làm sứ giả hòa bình, sứ giả hòa giải, hóa giải dân tộc, chiến tuyến.
Từ câu chuyện có vẻ riêng tư về mối quan hệ ly tán bi lụy trong chiến tranh Việt Nam của hai nhân vật ông John và bà Huệ, về cuộc sống của vợ chồng ông bà John trên đất Mỹ sau cuộc chiến, "Cơ bản là buồn" đã khái quát thành câu chuyện xã hội, câu chuyện chung của thế hệ những người cầm súng tại Việt Nam, rộng hơn nữa, tác phẩm đặt ra vấn đề mang tầm phổ quát, mang tính nhân loại: nỗi-buồn-chiến-tranh, mang đến một tiếng nói văn chương phản chiến lay động và thức tỉnh.
Hay nhà văn Chu Lai, người dầm mình và đi ra từ cuộc chiến, mặc dù đã là tác giả của 13 cuốn tiểu thuyết vạm vỡ về đề tài chiến tranh, nhưng mới đây nhất, ông lại trình làng cuốn tiểu thuyết thứ 14 - "Mưa đỏ" (NXB Quân đội nhân dân, 2016), viết về cuộc huyết chiến 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị mùa hè rực lửa 1972.
Đáy sông Thạch Hãn đâu chỉ có “bạn ta nằm” mà còn có cả những đồng loại nhưng không đồng chiến tuyến nằm. Chủ ý của nhà văn khi viết cuốn sách này là muốn trình hiện thêm một tiếng nói quyền lực của văn chương, trong việc lay thức con người nỗ lực phòng tránh chiến tranh cũng như hòa hợp, hòa giải dân tộc, chiến truyến.
Nhà thơ Đoàn Văn Mật: Tôi cho rằng văn chương trong quân đội trước đây hay hiện nay luôn có màu sắc của đời sống đương đại. Nhưng cũng phải nói để bạn hiểu như thế này:
Nhà thơ Đoàn Văn Mật
Thứ nhất: màu sắc đương đại là bởi nó được viết từ chính những nhà văn, nhà thơ đương đại. Và dù họ có viết về câu chuyện người lính trong các cuộc chiến tranh đã qua thì tinh thần của họ vẫn là “tinh thần người lính - sống chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân…”.
Thứ hai: những nhà văn, nhà thơ hiện nay khi viết vẫn luôn dành một tình cảm rất đặc biệt về người lính. Thế nên, trong các cuộc thi thơ, truyện ngắn, bút kí trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, người lính hôm nay vẫn hiện diện là một hình tượng đẹp, đầy cảm xúc và rất đáng trân trọng.
Đề tài người lính vẫn đậm nét
Hai ông suy nghĩ sao về chủ đề người lính trong đời sống đương đại? Phải chăng trong thời kỳ mới thì viết về người lính đã trầm lắng, chứ không còn sức nóng hổi như trước đây?
Nhà thơ Đoàn Văn Mật: Chủ đề người lính trong đời sống đương đại vẫn là một chủ đề quan trọng trong đời sống văn chương hiện nay. Còn khi nói về sự “trầm lắng” hay “nóng hổi” mà như bạn vừa đề cập đến thì phải xét ở khía cạnh thời cuộc của nó.
Có một thời khi mà nhà nhà ra trận, người người ra trận, mọi mối quan tâm đều dành cho những con người nơi đầu trận tuyến thì hẳn nhiên đề tài người lính là đề tài nóng hổi rồi.
Còn sự “trầm lắng” của người lính hôm nay bởi chúng ta đang sống trong thời hòa bình và hội nhập, người lính vẫn có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nhưng công việc của họ, đời sống của họ vốn thầm lặng hơn nhiều. Hơn nữa trong đội ngũ của người lính trước đây có sự đóng góp rất đông đảo của các văn nghệ sĩ đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ.
Họ bước ra chiến tuyến trong tư thế của một người lính, cùng với đó là tâm thế của những người cầm bút để viết về chính mình, viết về đồng đội mình, đất nước quê hương mình. Còn hôm nay, có một thực tế là xuất hiện rất ít những người lính đang công tác trong quân đội mà cầm bút viết. Điều đó có thể giải thích tại sao lại có sự “trầm lắng” hay “nóng hổi" mà bạn vừa đề cập.
Văn nghệ Quân đội đang có cuộc thi thơ trong hai năm (2015 - 2016), song song với cuộc thi thơ này, tạp chí đã thường xuyên tổ chức các Trại sáng tác văn học với đề tài chiến tranh cách mạng và người chiến sĩ. Tại các trại viết này các nhà thơ trong và quân đội (đặc biệt là các nhà thơ ngoài quân đội) được đi thực tế ở nhiều đơn vị, được ăn, được ngủ, được chứng kiến tận mắt công việc của những người lính hôm nay đã giúp họ viết ra nhiều tác phẩm rất đậm tinh thần người lính và bản thân những sáng tác này cũng có đóng góp không nhỏ cho cuộc thi nói riêng và đề tài người lính hôm nay nói chung. Đó là ở các trại sáng tác văn học còn về cuộc thi thơ thì đề tài chiến tranh cách mạng nói chung và người lính hôm nay nói riêng vẫn khá đậm nét.
Nhà văn Hoàng Đăng Khoa: Viết trực diện về đời sống của người lính hôm nay, ngoài tiểu thuyết "Biển xanh màu lá" của Nguyễn Xuân Thủy, thì có thể kể các truyện ngắn như "Những chàng trai sống cùng hoa sắng đắng", "Võ công binh nhì", "Chuyện lính", "Cánh rừng không yên ả" của Nguyễn Đình Tú; "Mùa hoa bạch đàn" của Trung Phương; "Triền sim tím" của Nguyễn Mạnh Hùng; "Khu độc thân" của Nguyễn Thế Hùng; "Đảo mù sương" của Phùng Văn Khai; "Chốt gió" của Trần Mạnh Hà; "Sóng trên đỉnh núi" của Lê Mạnh Thường; "Mùa này mía chẳng trổ bông" của Hồ Kiên Giang...
Tóm lại, viết trực diện về người lính hôm nay chưa phải là thế mạnh, là nguồn mạch cảm hứng lớn của các nhà văn đương đại. Những tác phẩm dài hơi, đầy đặn, vạm vỡ, phản ánh một cách chân thực, sinh động người lính hôm nay đang nằm đâu đó ở… phía trước.
Nhìn vào thế hệ những lớp nhà văn từ ngôi nhà số 4, thế hệ của Chính Hữu, Vũ Cao, Nguyên Ngọc kế tiếp là Chu Lai, Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, rồi Trần Đăng Khoa; một lớp nhà văn trưởng thành thuộc thế hệ 7x, 8x như các ông liệu có sợ "cớm nắng" bởi những cây cao bóng cả hay không?
Nhà văn Hoàng Đăng Khoa: Thế hệ nào có sứ mệnh lịch sử, có việc làm, có đường đi của thế hệ ấy. Nếu cứ sợ “cớm nắng” bởi Nguyễn Du thì lịch sử văn học dân tộc đã không được chứng kiến những hiện tượng thơ lục bát như Nguyễn Bính, như Nguyễn Duy, như Đồng Đức Bốn…
Và nếu cứ sợ “cớm bóng” bởi những “cây cao bóng cả” tiền chiến thì đã không hiển lộ những nhà thơ, nhà văn lớn từ ngôi nhà số 4 như anh vừa kể. Đã là người cầm bút thì ai, thuộc thế hệ nào cũng muốn “trổ” hết mình, tuy nhiên “lực” không phải lúc nào cũng “tòng tâm”…
Nhà thơ Đoàn Văn Mật: Nếu từng qua Tạp chí Văn nghệ Quân đội, bạn sẽ thấy ở ngay trước cửa Ngôi nhà số 4 ấy có hai cây đại già năm nào cũng nở ra những mùa hoa trắng muốt, tỏa bóng và thơm thảo. Cảnh vật ấy hay những con người mà bạn vừa nhắc đó chính là sự nhìn nhận rất đáng trân trọng đối với lớp nhà văn, nhà thơ thuộc thế hệ 7x, 8x như chúng tôi.
Hay nói một cách khác thì các thế nhà văn, nhà thơ lớp trước thực sự là những người truyền lửa, truyền những tinh hoa của họ trong văn chương để chúng tôi tiếp bước và tiếp tục sáng tạo ra những tác phẩm cho thế hệ mình.
Nói cho cùng thì văn chương là cuộc sáng tạo của những người “đi trên đường” và nếu đã sợ thì không ai dám bước trên con đường ấy cả.
Sự tỏa bóng và thơm thảo của các thế hệ văn chương Nhà số 4 như một bệ đỡ để chúng tôi có thể đóng góp thêm những tác phẩm văn chương của mình vào Ngôi nhà số 4 nói riêng và đời sống văn học nói chung.
Biết sử xưa để hiểu nay
Thưa nhà văn Uông Triều, cảm hứng viết về lịch sử luôn là chủ đề được ông hướng tới. Có thể nói, cái tạng của Uông Triều là viết về lịch sử. "Kiếm sắc và hoa đào" viết về nữ tướng Lê Chân; "Mùa xuân kinh thành" viết về Trần Thị Thái (thân mẫu của danh nhân Nguyễn Trãi); công chúa Huyền Trân được khắc tạc trong "Giấc mộng Huyền Trân", hay Trần Nhân Tông trong "Đêm cuối cùng ở Ngọa Vân"... Ông lấy cảm hứng lịch sử từ triều Trần - tôi hiểu vì quê hương ông là Yên Tử, Quảng Ninh, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn và gây dựng Thiền phái Trúc Lâm. Điều tôi muốn hỏi là, cảm hứng lịch sử đời Trần và lịch sử cận/hiện đại, gắn bó với nhau ra sao?
Nhà văn Uông Triều: Thực ra lịch sử (quá khứ) và hiện tại rất gần nhau. Sở dĩ đề tài lịch sử luôn chứa đựng sự hấp dẫn vì nhiều vấn đề của hiện tại thôi thúc một cái nhìn về quá khứ.
Nhà văn Uông Triều
Ví dụ sự phục hưng của Phật giáo mang tính bản địa, kinh nghiệm, bài học bảo vệ Tổ quốc hoặc đơn giản hơn là những đúc kết mà chúng ta thấy có hữu ích qua việc soi chiếu thành công hoặc thất bại trong lịch sử. Lịch sử là cái gương để ta nhìn lại mình và nhờ đó, có thể tránh được những vấp ngã. Biết sử xưa để hiểu nay và lịch sử luôn có những đoạn lặp lại. Rất có thể ta sẽ giẫm vào bước chân của người xưa hoặc tránh qua nó.
Lịch sử là sự phản biện ngược đã được kiếm chứng, vậy sao ta không tận dụng kho kiến thức này để làm thông tuệ hơn cho mình. Văn học viết về lịch sử cũng là vì cái ý nghĩa lớn này mà tồn tại, tất nhiên viết về lịch sử cũng xuất phát từ những thôi thúc nội tại của chính vấn đề lịch sử nữa.
Gần đây, cũng có những tác giả trẻ ở tuổi 9x, thậm chí sinh năm 2000, cũng bắt tay vào viết lịch sử. Tôi đã đọc các cuốn tiểu thuyết đó, có cả tiểu thuyết dã sử và cả tiểu thuyết dạng chí dị. Song, tôi thấy rằng đó mới chỉ là những bài văn nhiều chữ, dài chữ mà chưa đạt đến tầm tiểu thuyết. Không những thế, còn lan man, dông dài. Một số người đã thẳng tay phê phán. Tôi lại nghĩ khác, với những tác giả trẻ tuổi mới mon men tới con đường chữ nghĩa thì cần được khuyến khích, động viên, và cũng cần cả sự uốn nắn. Các tác giả trẻ có thể cũng muốn nghe một số kinh nghiệm khi đi vào đề tài này?
Nhà văn Uông Triều: Thực ra viết về lịch sử là một điều khó, thậm chí là một thách thức. Vì sao ư, trước hết cần sức đọc tương đối lớn để hiểu các vấn đề lịch sử, tìm kiếm, tra cứu tư liệu, dựng lại không khí, bối cảnh, ngôn ngữ... Nói chung lịch sử là mảnh đất tiềm ẩn sự giàu có nhưng rất nhiều chông gai. Một điểm quan trọng nữa là sự nhìn nhận, tiếp cận với các nhân vật, sự kiện cũng không đơn giản.
Phải đủ một kiến thức và sự tự tin nhất định cũng như khổ công thì mới làm việc được với nó. Vậy rằng nếu các cây bút trẻ thử sức ở lĩnh vực này thì cũng nên thấy làm mừng mà khuyến khích, những non nớt là điều khó tránh khỏi, không nên nặng nề quá. Còn về kinh nghiệm, tôi chỉ nghĩ rằng cần tìm hiểu vấn đề cho thấu đáo, khi nào thấy đủ tự tin và sức lực thì hãy viết, vì viết về lịch sử là một cuộc chơi “hạng nặng” thực sự, nếu so với các đề tài khác.
Thực thi quyền lực văn chương
Balzac có nói, nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại. Thực tại đời sống xã hội hiện nay, khiến ông suy nghĩ ra sao trước ngòi bút của mình?
Nhà văn Uông Triều: Câu nói đó của Balzac rất chính xác. Nhà văn phải phản ánh được thời đại của anh ta, cuộc sống xung quanh anh ta nhưng vấn đề là phản ảnh cuộc sống qua văn chương cần có một bộ lọc tư tưởng và nghệ thuật. Không phải bê tất cả những sống sít, chép nguyên văn cuộc sống mà đưa vào.
Đời sống xã hội qua văn chương phải có một góc độ khác, đã qua thẩm thấu và kết tinh của nhà văn. Một điều tôi muốn nói thêm là hình như chúng ta vẫn sợ hoặc có những bóng ma vô hình ám ảnh khi viết về các đề tài được nhiều người quan tâm như tham nhũng, chạy chức, chạy quyền hay bảo vệ biên giới Tổ quốc.
Báo chí đã được nói khá tự do, tại sao văn chương còn bị hạn chế, hay do người ta còn sợ những đa nghĩa, tinh tế của văn chương và suy diễn? Nhưng văn chương không đa nghĩa và tinh tế thì còn gì là văn chương nữa. Nếu đủ lớn và đủ tầm hiểu văn chương thì tôi tin rằng sẽ có nhiều tác phẩm hay và hữu ích với đời sống xã hội hiện nay.
Nhà thơ Đoàn Văn Mật: Tôi nghĩ văn chương là cuộc khai thác đến tận cùng con người của chính mình, thời đại mình. Và không ai có thể hồ nghi câu nói này của nhà văn Balzac: “Nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại” nên quan tâm hay viết ra những tác phẩm có tính thời sự là điều tôi vẫn làm. Nhưng cũng phải nói rằng đối với người làm văn chương thì đề tài thời sự luôn là đề tài có sự phản ánh có chọn lọc.
Nhà văn Hoàng Đăng Khoa: Những nhà văn mặc áo lính hôm nay, đặc biệt là nhà văn trẻ, họ hướng đến thử sức và chinh phục nhiều đề tài khác nhau chứ không nhất thiết phải “cố đấm ăn xôi” theo đuổi duy nhất đề tài chiến tranh và người lính. Họ luôn nỗ lực rút ngắn cự ly tiếp cận, dấn nhập với bề bộn ngổn ngang đời để hấp phả hơi thở đương đại vào trang viết.
Nhà văn Hoàng Đăng Khoa
Những vấn đề nhức bỏng nhưng đang là miền hoang của văn học như tội phạm ngã ba sông, tội phạm vùng cao, tội phạm internet, tội phạm buôn bán người, kinh doanh nội tạng xuyên quốc gia… đã được các nhà văn quân đội thám hiểm, tiểu thuyết hóa bằng các tác phẩm đang gây chú ý như "Hồ sơ một tử tù", "Phiên bản", "Cô Mặc Sầu" của Nguyễn Đình Tú; "Sát thủ Online", "Có tiếng người trong gió" của Nguyễn Xuân Thủy…
Rõ ràng, sự bành trướng của các sự kiện xã hội trong trường ý thức của văn chương làm hiển lộ ngày một nhiều những nhà văn dấn thân, nhập cuộc. Viết, với họ là hành động cất tiếng của lương tri. Họ tự gắn mình vào công cuộc thực thi quyền lực của văn chương, trong việc giảm trừ cái ác, soi sáng thế giới sự sống và bảo vệ chúng ta chống lại sự lãng quên con người. Qua đây, nhà văn ghi tên mình lên tấm bản đồ tinh thần của thời đại.
Xin cảm ơn chia sẻ của nhà văn Hoàng Đăng Khoa, nhà thơ Đoàn Văn Mật và nhà văn Uông Triều!