Sợi dây thi ca bắt đầu từ tình yêu thơ của hai con người có sự cách biệt về tuổi tác, nhà thơ Ngô Thanh Vân (sinh năm 1981, Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Gia Lai) và lương y Lê Thuận Nghĩa (sinh năm 1959, đang định cư tại Hamburg, Đức). Khoảng cách thế hệ được sợi dây thi ca kéo gần lại, và hình thành quan hệ cha nuôi và con gái nuôi.

Chương trình "Dòng chảy tâm ngôn giữa cha và con" tại TP.HCM. Ảnh: TL.
Nhà thơ Ngô Thanh Vân đã không còn xa lạ công chúng, với nhiều tác phẩm đã xuất bản. Còn lương y Lê Thuận Nghĩa chỉ làm thơ như một liệu pháp tinh thần. Thế nhưng, được sự khích lệ của con gái nuôi, lương y Lê Thuận Nghĩa đã tập hợp những sáng tác rải rác thành tập thơ “Vệt thiều quang”.
Để chứng minh sự song hành cùng cha nuôi, nhà thơ Ngô Thanh Vân cũng in tập thơ “Vân không”, và tổ chức ra mắt chung với “Vệt thiều quang”. Sợi dây kết nối thi ca của họ được thể hiện bằng sự kiện mang tên “Dòng chảy tâm ngôn giữa cha và con” tại Hà Nội và TP.HCM.
Sợi dây thi ca có thể phát hiện ở điểm giao thoa giữa hai tập thơ “Vệt thiều quang” và “Vân không” là tranh bìa đều của chính tác giả. Mở đầu tập thơ “Vệt thiều quang” của Lê Thuận Nghĩa là bài thơ có tên “Vệt thiều quang”, còn kết thúc của tập thơ “Vân không” cũng là bài thơ có tên “Vệt thiều quang” do Ngô Thanh Vân làm tặng cha nuôi, như một dòng chảy, sự kết nối giữa hai tập thơ, hai tác giả. Bài cuối của tập thơ “Vệt thiều quang” là bài thơ “Đêm ngân hồ nằm nghe sóng hát” được tác giả Lê Thuận Nghĩa viết cho con gái nuôi Ngô Thanh Vân. Gam màu chủ đạo là gam màu xanh lơ nhẹ nhàng, Lê Thuận Nghĩa gọi gam màu đó là màu “lòng mẹ”.
Với tập thơ “Vệt thiều quang”, nhà văn Đặng Thân nhận định: “Đọc Lê Thuận Nghĩa, người ta như có thể vừa luyện tâm, vừa luyện thở, vừa thấu nghiệm những biên độ của yêu, khổ, mất, còn. Tập thơ "Vệt thiều quang" vì thế có thể xem là bản hòa ca giữa khí và thi, giữa siêu nghiệm và hồng trần – một “chân dung kép” của chính tác giả: thi sỹ - hành giả, kẻ tình si - người tu tập, và hơn hết là một tâm hồn không ngừng kiếm tìm ánh sáng an nhiên.
Ngôn ngữ trong tập này có hai cực song hành: một bên là chất siêu hình, thấm đẫm Phật học, Lão học, bên kia là hơi thở tình tự, những rung động cụ thể của một kẻ tình si. Nhờ thế, thi giới của Lê Thuận Nghĩa vừa lửng lơ mộng mị vừa neo chắc vào nỗi đời thường. Đây chính là điểm đặc biệt: ông không ru ngủ độc giả trong huyền bí, mà luôn cho một điểm neo từ tình yêu, mất mát và mong cầu”.
Với tập thơ “Vân không”, hầu hết các đồng nghiệp đều biểu dương. Có người cho rằng, “Vân không” gây ấn tượng bởi giọng thơ thủ thỉ, ân tình. Những bài thơ như chính lời tâm sự từ cõi lòng của chị, biểu lộ cái nhìn hồn hậu về thế giới gần gũi xung quanh, về những người thân yêu, về cuộc đời biến động. Điềm đạm và dịu êm, những câu thơ của Ngô Thanh Vân trong tập thơ này luôn gợi thức một nỗi niềm da diết.
Có người nhận xét, Ngô Thanh Vân sử dụng những hình thức linh hoạt cho các bài thơ của mình. Lục bát của chị mềm mại ngọt ngào, thơ tự do của chị phóng khoáng tung tẩy, các hình thức niêm luật khác như sáu chữ, bảy chữ đều cô đọng nén chặt. Và dù viết với bất kỳ hình thức nào, thơ Ngô Thanh Vân luôn đầy ắp vần điệu và nhạc tính.
Và cũng có người tán tụng, “Vân không” là cuộc hành hương bằng thơ của Ngô Thanh Vân qua những miền chông chênh của thân phận và tình cảm, để rồi tìm gặp ít nhiều sự nhẹ nhõm của tâm hồn. “Vân không” là một cách nhìn thế giới bằng ngôn từ, một tâm thái sống: dẫu đi qua giông bão, lòng vẫn hướng về sự an nhiên, như vầng mây thảnh thơi giữa bầu trời rộng lớn.