Trong bối cảnh Việt Nam đang hoàn thiện các mục tiêu giảm phát thải để cập nhật cho Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) mới, bản NDC 2022 cung cấp cơ sở cho lộ trình đến năm 2030 và hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Mục tiêu giảm phát thải trong NDC
Theo TS. Lương Quang Huy, Trưởng Phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn (Cục Biến đổi khí hậu), trong NDC 2022, mức độ tham vọng về giảm phát thải được nâng lên đáng kể so với NDC 2020. Đến năm 2030, tổng lượng phát thải so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) được cam kết giảm mạnh, trong đó đóng góp không điều kiện tăng từ 9% lên 15,8%, còn đóng góp có điều kiện tăng từ 27% lên 43,5%. Đây là bước tiến lớn, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng xanh và các-bon thấp.
NDC 2022 cũng làm rõ hai nhóm đóng góp: Đóng góp không điều kiện là phần giảm phát thải Việt Nam tự thực hiện bằng nguồn lực trong nước, bao gồm ngân sách nhà nước, vốn vay, đầu tư của doanh nghiệp và người dân; Đóng góp có điều kiện phụ thuộc vào hỗ trợ quốc tế thông qua tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực và các cơ chế hợp tác song phương, đa phương trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Thỏa thuận Paris.
TS. Lương Quang Huy, Trưởng Phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn (Cục Biến đổi khí hậu), cho biết, NDC 2022 đã nâng tham vọng giảm phát thải khí nhà kính. Ảnh: Minh Hạnh.
NDC 2022 được xây dựng đồng bộ với Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050, đồng thời lồng ghép mục tiêu giảm 30% lượng phát thải mê-tan vào năm 2030; cập nhật giả định tính toán mới, bổ sung phát thải từ lĩnh vực làm mát - làm lạnh, thu hồi và tiêu hủy các chất HFC.
6 nhóm lĩnh vực chính
Để thực hiện mục tiêu giảm phát thải, NDC Việt Nam phân bổ nhiệm vụ theo sáu lĩnh vực chính: năng lượng, giao thông, nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý chất thải và các quá trình công nghiệp. Theo TS. Lương Quang Huy, từ năm 2022, các bộ, ngành đã xây dựng kế hoạch giảm phát thải phù hợp với lộ trình net zero năm 2050.
Trong năng lượng, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh giảm phụ thuộc năng lượng hóa thạch, thúc đẩy điện gió, điện mặt trời, sinh khối, đồng thời nâng cao hiệu quả năng lượng trong công nghiệp, giao thông và xây dựng, khuyến khích công nghệ sản xuất sạch các-bon thấp.
Trong giao thông vận tải, giảm phát thải được lồng ghép vào các chiến lược, quy hoạch ngành; thực hiện chương trình chuyển đổi năng lượng xanh và tăng sử dụng năng lượng tái tạo trong chiếu sáng công cộng, báo hiệu giao thông.
Trong nông nghiệp, các phương thức bền vững như “1 phải 5 giảm”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý phân bón hiệu quả, xử lý phụ phẩm nông nghiệp, cải thiện khẩu phần ăn vật nuôi và áp dụng công nghệ xử lý chất thải giúp giảm phát thải methane. Các dự án điển hình như “Một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp” tại Đồng bằng sông Cửu Long đang được nhân rộng.
Trong lâm nghiệp, Việt Nam duy trì đóng cửa rừng tự nhiên, thúc đẩy tái sinh và trồng rừng mới, quản lý rừng bền vững, cấp chứng chỉ rừng, nâng cao hiệu quả chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) và triển khai các thỏa thuận quốc tế như ERPA.
Trong quản lý chất thải, ưu tiên phân loại tại nguồn, tái chế, tái sử dụng nhựa, giấy, kim loại, áp dụng công nghệ đốt rác phát điện, sản xuất khí sinh học từ chất thải hữu cơ.
Cuối cùng, trong các quá trình công nghiệp, nhiều doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới, giảm clinker trong xi măng, thu hồi và tái chế khí nhà kính như HFC, PFC, SF6, N2O, đồng thời hoàn thiện tiêu chuẩn sản phẩm và vật liệu xây dựng các-bon thấp, kiểm soát việc sử dụng các chất làm suy giảm tầng ô-dôn.




























