Bước sang năm 2026, những con số tăng trưởng trong xuất khẩu NLTS không còn là câu chuyện duy nhất. Trong cuộc trao đổi của Báo Nông nghiệp và Môi trường với TS Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và Môi trường (ISPAE), nhiều vấn đề cốt lõi được đặt ra.
TS Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và Môi trường (ISPAE). Ảnh: Linh Linh.
Thưa ông, năm 2025 tiếp tục ghi nhận những con số kỷ lục về kim ngạch xuất khẩu nông sản. Theo ông, đâu là nguyên nhân cốt lõi của sự tăng trưởng này?
Trong 11 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của nước ta ước đạt 64,0 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2024, cao hơn mức 62,6 tỷ USD của cả năm 2024 xuất siêu ước khoảng 21 tỷ USD cả năm. Tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp đạt khoảng 3,9%, vượt mục tiêu đề ra mặc dù thiên tai, dịch bệnh diễn ra phức tạp trong năm qua, một lần nữa cho thấy nông nghiệp là ngành trụ đỡ cho nền kinh tế.
Rất nhiều ngành đã duy trì và nâng cao kim ngạch nhờ nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm ứng dụng KHCN trong sản xuất, chế biến, bảo quản đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Điển hình như chất lượng xuất khẩu gạo ngày càng cải thiện rõ rệt khi gạo chất lượng cao chiểm chủ yếu.
Ngành thủy sản kim ngạch xuất khẩu dự kiến cả năm 2025 sẽ cán mốc 11,2 - 11,3 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến nay. Ảnh: VGP.
Ngành thủy sản kim ngạch xuất khẩu dự kiến cả năm 2025 sẽ cán mốc 11,2 - 11,3 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến nay. Các nhóm hàng chế biến sâu, mực, bạch tuộc và cá biển đều duy trì mức tăng trưởng 2 con số. Tương tự là ngành cà phê, năm 2025 đánh dấu bước tiến vượt bậc của ngành cà phê với kim ngạch xuất khẩu kỷ lục vượt 8 tỷ USD, chuyển dịch mạnh mẽ sang chế biến sâu, đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng (cà phê đặc sản, cà phê hòa tan), đa dạng hóa sản phẩm (cà phê hữu cơ, rang xay), khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, không chỉ bán nguyên liệu thô mà còn xuất khẩu sản phẩm có giá trị cao, thân thiện môi trường. Với ngành điều, thành tựu đạt được trong năm 2025 cũng đến từ việc các doanh nghiệp chủ động đa dạng kênh phân phối, quản trị rủi ro và đầu tư chế biến sâu, qua đó đã giúp ngành điều Việt Nam gia tăng giá trị, giữ vững vị thế xuất khẩu trên thế giới trong bối cảnh ngày càng nhiều thách thức đến từ các đối thủ cạnh tranh mới từ châu Phi. Mặc dù còn phải cố gắng nhiều nhưng chất lượng nông sản nâng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, xã hội, môi trường của các thị trường nhập khẩu. Trong năm vừa qua, số cảnh báo của EU về chất lượng nông sản cũng giảm đi 50%, điều này cũng chứng minh chất lượng nông sản xuất khẩu có sự cải thiện rõ rệt.
Sự phụ thuộc vào một vài thị trường lớn vẫn là 'gót chân Achilles'. Ví dụ khi một đối tác thay đổi chính sách nhập khẩu gạo, thị trường gạo lập tức bị động. Ông nhận định thế nào về tính bền vững trong xuất khẩu nông sản Việt và rủi ro khi 'bỏ trứng một giỏ' trong bối cảnh thị trường được dự báo tiếp tục biến động trong năm 2026?
Có thể thấy, mặc dù trong năm 2025, Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp thuế đối ứng đối với hàng hóa Việt Nam, trong đó có NLTS, nhưng thực tế xuất khẩu NLTS sang thị trường này vẫn duy trì được mức tăng trưởng đáng kể. Điều này phần nào được giải thích bởi việc doanh nghiệp Việt đã chủ động đẩy mạnh giao hàng trước khi thuế áp dụng, tái cơ cấu sản phẩm, và tận dụng ưu đãi thương mại, giúp giữ được dòng chảy xuất khẩu.
Cùng với nhóm các thị trường lớn này, chúng ta cũng xuất khẩu vào nhiều thị trường khác nữa như Nhật bản, Hàn Quốc, Úc, Newzealand, Trung Đông, Singapore…Đây đều là những thị trường có tiêu chuẩn rất cao. Nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang gần 200 quốc gia và lãnh thổ, điều này cho thấy sự đa dạng về thị trường. Tuy nhiên, đúng là 3 thị trường lớn chiếm chủ yếu, ngoài ra một số nông sản Việt Nam chủ yếu dựa vào một vài thị trường chính như trái cây tươi (thanh long, chuối), cao su sắn xuất sang Trung Quốc; gỗ và sản phẩm đỗ xuất sang Mỹ là chủ yếu thì sẽ có những rủi ro nhất định.
Đối với mặt hàng gạo, trong năm 2025, xuất khẩu gạo Việt Nam chịu ảnh hưởng rõ rệt từ việc thị trường truyền thống giảm nhập khẩu, trong đó Philippines - vốn là thị trường lớn nhất của gạo Việt - tạm dừng nhập khẩu trong các tháng cuối năm, và Indonesia gần như dừng nhập khẩu hoàn toàn từ nước ta, khiến tổng kim ngạch và lượng xuất khẩu gạo giảm đáng kể so với năm trước. Tuy nhiên, năm 2025 cũng ghi nhận những tín hiệu tích cực từ thị trường mới và sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Cụ thể, Việt Nam đã gia tăng xuất khẩu sang một số thị trường châu Phi và Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng lớn. Sự gia tăng tại các thị trường này đã phần nào bù đắp sụt giảm từ Philippines và Indonesia, giúp Việt Nam vẫn giữ vững vị thế trong top các nước xuất khẩu lớn. Một điểm rất đáng chú ý là cơ cấu xuất khẩu gạo Việt Nam đã dịch chuyển mạnh hơn sang các sản phẩm có chất lượng cao. Đến cuối năm 2025, tỷ trọng xuất khẩu gạo chất lượng cao bao gồm gạo trắng chất lượng cao và gạo thơm các loại chiếm tới khoảng 69% tổng lượng gạo xuất khẩu. Điều này có nghĩa là Việt Nam không chỉ xuất khẩu số lượng lớn gạo nguyên liệu thường mà còn tăng tỷ trọng các loại gạo giá trị cao.
Theo quan sát của Viện, đâu là những 'luật chơi mới' (như EUDR, dấu chân Carbon...) mang tính bắt buộc mà các cường quốc nhập khẩu đang đặt ra, khiến nông sản Việt Nam không thể tiếp tục tư duy sản xuất theo lối cũ?
Tính bền vững và yêu cầu “ăn xanh - ăn có trách nhiệm” không còn là xu hướng mà đã trở thành những luật chơi bắt buộc trên thương trường quốc tế. Từ năm 2026 trở đi, các thị trường lớn, đặc biệt là Liên minh châu Âu - đang áp dụng loạt quy định môi trường và bền vững mới, buộc nông sản Việt Nam phải thay đổi cách sản xuất, quản lý chuỗi cung ứng và tổ chức truy xuất nguồn gốc, nếu không muốn mất quyền tiếp cận thị trường giá trị cao.
Việt Nam đã và đang chủ động triển khai lộ trình chuẩn bị bài bản để thích ứng với Quy định chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR), coi đây không chỉ là yêu cầu bắt buộc để duy trì xuất khẩu sang EU mà còn là động lực thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển nông nghiệp bền vững dài hạn. Từ tháng 7/2023, Việt Nam đã ban hành Khung kế hoạch hành động thích ứng với EUDR, gắn việc tuân thủ quy định này với Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2050. Trên cơ sở đó, bộ máy thực hiện được kiện toàn theo mô hình hợp tác công tư (PPP) từ trung ương đến địa phương, bao gồm Nhóm công tác chung về EUDR, các nhóm PPP theo ngành hàng và các tổ công tác chuyên sâu trong lĩnh vực lâm nghiệp; đồng thời hình thành liên minh công tư tại Đắk Lắk và Lâm Đồng để triển khai ngay tại vùng sản xuất trọng điểm.
Về kỹ thuật, Việt Nam tập trung xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu (CSDL) về rừng và vùng trồng, triển khai thí điểm giải pháp đáp ứng EUDR cho ngành cà phê từ năm 2024 và ban hành hướng dẫn kỹ thuật riêng cho các ngành hàng như cà phê, gỗ và cao su nhằm đáp ứng yêu cầu định vị GPS/polygon và truy xuất nguồn gốc đến từng lô đất. Song song với đó, công tác tuyên truyền, tập huấn và đối thoại thường xuyên với Ủy ban châu Âu (EC), đặc biệt là Tổng vụ Môi trường (DG ENV), được đẩy mạnh để xử lý các vướng mắc kỹ thuật và sự khác biệt về bản đồ, khái niệm.
Việt Nam cũng tích cực cùng doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế trong việc phát triển nông nghiệp xanh, giảm phát thải. Trong thời gian tới, trọng tâm sẽ là hoàn thiện khung pháp lý trong trồng trọt và lâm nghiệp, đồng thời phát triển nền tảng dữ liệu tập trung tích hợp truy xuất nguồn gốc và đánh giá rủi ro, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân tuân thủ EUDR một cách hiệu quả và bền vững.
Nhìn rộng ra dòng chảy thế giới, nhu cầu lương thực hậu Covid liên tục tăng nhưng khả năng tiếp cận lại khó khăn hơn do đứt gãy logistics và bảo hộ thương mại. Theo ông, xu hướng 'vừa thiếu vừa khó mua' này có tiếp diễn trong năm 2026 không và có thể tháo gỡ bằng những chính sách gì?
Nhìn toàn cảnh dòng chảy lương thực thế giới sau Covid, mô hình “vừa thiếu vừa khó mua” - tức là nhu cầu lương thực vẫn tăng liên tục trong khi khả năng tiếp cận lại bị hạn chế bởi đứt gãy logistics và bảo hộ thương mại - có khả năng tiếp diễn sang năm 2026 nếu không có biện pháp ứng phó chiến lược.
Trước hết, xu hướng bảo hộ thương mại và rào cản chính sách đang gia tăng, với nhiều biện pháp thuế quan, hạn ngạch hay rủi ro chính sách gây ra bất định cho thương mại toàn cầu. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thậm chí dự báo rằng tăng trưởng thương mại hàng hóa toàn cầu trong giai đoạn 2025 - 2026 sẽ bị kìm hãm bởi mức độ hàng rào thuế và sự bất định về chính sách, khiến dòng chảy hàng hóa (bao gồm lương thực) kém thuận lợi hơn so với trước đây.
Thứ hai, vấn đề logistics và chuỗi cung ứng sau đại dịch vẫn chưa hoàn toàn hồi phục.
Kết hợp với căng thẳng địa chính trị và xu hướng bảo hộ gia tăng ở một số nền kinh tế lớn, khả năng “thiếu nhưng khó mua” - tức cung ứng có thể bị gián đoạn, giá biến động và các thị trường dễ tổn thương bị mất khả năng tiếp cận nguồn lương thực quốc tế - không phải là kịch bản bất khả thi trong năm 2026.
Để tháo gỡ tình trạng này và cải thiện tính bền vững của dòng chảy lương thực toàn cầu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng một số giải pháp mang tính chiến lược như sau:
Thứ nhất, đa dạng hóa thị trường và chuỗi cung ứng: Việc phụ thuộc quá nhiều vào một vài đối tác thương mại hay một số tuyến logistics chính khiến các nước dễ bị tổn thương trước biến động. Đa dạng hóa nguồn cung, mở rộng hợp tác với các khu vực mới - bao gồm thị trường châu Phi, Nam Á hay Mỹ Latinh - có thể giảm rủi ro phụ thuộc và nâng cao tính linh hoạt của chuỗi cung ứng.
Thứ hai, tăng cường liên kết khu vực và khuôn khổ thương mại mở: Thúc đẩy tự do hóa thương mại thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA), cơ chế ưu đãi thuế quan và các thỏa thuận thuận lợi hóa thương mại sẽ giúp giảm rào cản và chi phí giao dịch, qua đó giúp hạ giá lương thực cho các nước nhập khẩu.
Thứ ba, phát triển logistics bền vững và ứng dụng công nghệ: Đầu tư nâng cấp hạ tầng cảng, kho bãi, vận tải liên kết và áp dụng công nghệ số để dự báo nhu cầu, tối ưu hóa kho vận và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng sẽ giúp giảm chi phí và rủi ro trong hiện tại và tương lai.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế và dự trữ chiến lược: Các cơ chế hợp tác đa phương về an ninh lương thực, chia sẻ thông tin về tồn kho, cũng như hình thành các kho dự trữ chiến lược theo khu vực sẽ làm giảm biến động giá và khắc phục tình trạng đứt gãy cung khi có khủng hoảng xảy ra.
Xin cảm ơn ông!
















