Thời điểm tháng 6–7 là giai đoạn bà con nông dân các tỉnh Tây Nguyên bước vào vụ trồng mới hoặc tái canh cà phê. Trong đó công đoạn chọn và làm đất có vai trò then chốt, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng của cây và hiệu quả sản xuất lâu dài.
Theo Thạc sĩ Đinh Thị Tiếu Oanh, Trưởng bộ môn Cây công nghiệp - Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), nếu khâu chuẩn bị đất không kỹ, nguy cơ thất bại trong tái canh là rất cao, đặc biệt do thoái hóa đất và tuyến trùng gây hại.

Thạc sĩ Đinh Thị Tiếu Oanh, Trưởng bộ môn Cây công nghiệp - Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, cà phê là cây lâu năm có yêu cầu cao về đất đai. Ảnh: Phạm Hoài.
Cà phê là cây lâu năm có yêu cầu cao về đất đai. Đất thích hợp cần có tầng canh tác sâu (trên 70 cm), cấu trúc tơi xốp, thoát nước tốt và giữ ẩm vừa phải, độ pH nằm trong khoảng 4,5 - 6,5. Đất đỏ bazan hoặc đất xám trên đá bazan là loại đất lý tưởng cho cây cà phê. Ngoài ra, đất cần có hàm lượng mùn cao, giàu vi sinh vật có lợi. Những khu vực có tầng đá ngầm nông, kết von hoặc dễ ngập úng vào mùa mưa không nên chọn làm nơi trồng cà phê.
Trước khi xuống giống, bà con nên lấy mẫu đất gửi đi phân tích để đánh giá độ chua (pH), hàm lượng hữu cơ, các nguyên tố đa – trung – vi lượng, đặc biệt là mật độ tuyến trùng. Tuyến trùng là đối tượng gây hại nguy hiểm, nhất là trên rễ cây non. Nếu mật số tuyến trùng vượt ngưỡng cho phép, bà con cần luân canh ít nhất một năm với cây trồng khác không cùng họ cà phê. Một số cây họ đậu, muồng hoa vàng luân canh có tác dụng cải tạo và làm sạch đất, giúp giảm mật độ tuyến trùng và tăng sinh khối.
Khi đã nhổ bỏ vườn cà phê cũ, bước tiếp theo là xử lý rễ cà phê kỹ, thu gom toàn bộ rễ nhỏ, rễ tơ còn sót lại trong đất. Đây chính là nguồn sống và nơi cư trú chính của tuyến trùng. Sau đó tiến hành cày xới kết hợp bón vôi từ 1 tấn/ha rải trên bề mặt và để đất phơi ải trong vòng 2–3 tháng vào mùa khô. Ánh nắng gắt của Tây Nguyên trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 3 là thời điểm lý tưởng để phơi ải, giúp tiêu diệt trứng và tuyến trùng tồn dư bởi nhiệt độ đất có thể đạt đến 60°C – ngưỡng tiêu diệt hiệu quả nhiều mầm bệnh trong đất.

Ngoài việc chọn giống tốt thì khâu làm đất trước khi trồng cà phê rất quan trọng. Ảnh: TT.
Khoảng một tháng trước khi trồng, bà con cần chuẩn bị hố và bón lót đúng kỹ thuật. Đất trong hố nên được trộn đều với phân chuồng hoai mục (10–15 kg mỗi hố) cùng phân lân (0,5 kg), vôi bột (1 kg). Việc để hố ổn định trong thời gian đủ dài giúp các thành phần phân hủy hoàn toàn, tạo ra môi trường đất chuyển tiếp lý tưởng, giúp cây giống bén rễ nhanh, giảm hiện tượng sốc khi trồng. Hình thức múc hố bằng máy hiện nay là một lợi thế vì giúp xới xáo tầng đất sâu và đưa các rễ tồn dư lên mặt đất để thu gom dễ dàng.
Một lưu ý quan trọng khác là đối với những hộ dân tự ươm cây giống, tuyệt đối không dùng đất đã từng canh tác cà phê để làm bầu ươm. Tuyến trùng có thể tồn tại dai dẳng trong đất dù không phát bệnh ngay. Giai đoạn cây còn trong bầu (khoảng 3–4 tháng) tuyến trùng chưa gây hại rõ rệt nhưng khi đưa ra trồng ngoài đồng, mật số tuyến trùng có thể tăng mạnh, tấn công rễ non khiến cây chết hàng loạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả sản xuất.
Khâu chuẩn bị đất – từ chọn lựa, xử lý, cải tạo đến bón lót đều mang tính nền tảng. Một vườn cà phê có thể khai thác từ 25 đến 30 năm, do đó sự đầu tư kỹ lưỡng ban đầu sẽ quyết định đến độ bền, năng suất và khả năng chống chịu về sau. Khi đất khỏe, cây khỏe, rễ phát triển mạnh, bộ lá sung mãn sẽ ít sâu bệnh hơn, ít phụ thuộc vào thuốc hóa học, từ đó tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế. Trồng cà phê không thể nóng vội, và “ăn chắc mặc bền” bắt đầu từ chính thửa đất.