Theo Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2021–2025 được xem là giai đoạn “thành công nhất trong nhiều năm trở lại đây”, không chỉ ở kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo, mà còn ở những đổi mới mang tính nền tảng cho giai đoạn tiếp theo.
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường trả lời phỏng vấn Báo Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Hải Nam.
Thay đổi cách tiếp cận: Từ thu nhập sang phúc lợi đa chiều
Xin ông cho biết tổng quan về vai trò của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo giai đoạn 2021–2025?
Ông Lê Đức Thịnh: Giai đoạn 2021–2025 là một bước chuyển quan trọng, chúng ta đã chuyển từ giảm nghèo theo thu nhập sang giảm nghèo đa chiều. Nghĩa là không chỉ quan tâm tới thu nhập mà còn quan tâm tới y tế, giáo dục, hạ tầng, việc làm và tiếp cận dịch vụ công. Cục đã phối hợp với các địa phương nhằm phát triển sinh kế bền vững và huy động nguồn lực, góp phần hoàn thành nhiều chỉ tiêu của chương trình.
Cách tiếp cận này giúp các chương trình thoát khỏi cơ chế hỗ trợ dàn trải, tạo tác động sâu vào chất lượng cuộc sống. “Giảm nghèo bền vững đòi hỏi phúc lợi, chứ không chỉ là tiền,” ông nhấn mạnh.
Ba chương trình mục tiêu liên kết chặt chẽ hơn
PV: Những yếu tố then chốt nào từ Cục đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế hợp tác và hỗ trợ giảm nghèo?
Ông Lê Đức Thịnh: Khác với giai đoạn trước, ba chương trình mục tiêu- giảm nghèo, nông thôn mới, phát triển vùng dân tộc thiểu số- miền núi đã có sự điều phối thống nhất hơn, tạo ra “hiệu ứng cộng hưởng” trên cùng địa bàn.
Có một số yếu tố then chốt, đó là tiếp cận đa chiều; sự phối hợp của ba chương trình mục tiêu; đầu tư hạ tầng vùng nghèo; phát triển sinh kế; ứng dụng khoa học kỹ thuật; phát triển hợp tác xã và sản phẩm OCOP. Giai đoạn này có gần 10.000 hợp tác xã mới, nâng tổng số lên khoảng 23.000; khoảng 30.000 hộ nghèo hưởng lợi trực tiếp từ các mô hình liên kết. Ví dụ như các mô hình hợp tác xã theo hướng du lịch cộng đồng là hướng đi mới giúp các hộ liên kết và thoát nghèo hiệu quả.
Mô hình phát triển du lịch cộng đồng trong các nhà nổi chống lũ tại xã Kim Phú, tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Võ Dũng.
Lồng ghép các chương trình trong bối cảnh sáp nhập các đơn vị hành chính, chính quyền hai cấp
Trong bối cảnh sắp xếp chính quyền hai cấp, Cục đã điều chỉnh cơ chế phối hợp như thế nào để đảm bảo hỗ trợ hộ nghèo? Việc lồng ghép chương trình trong bối cảnh sáp nhập các đơn vị hành chính gặp khó khăn gì?
Ông Lê Đức Thịnh: Giai đoạn 2021–2025 cũng chứng kiến sự lan tỏa mạnh mẽ của công nghệ vào khu vực nông thôn, miền núi: áp dụng giống mới, công nghệ chế biến, dịch vụ công trực tuyến, quản lý dữ liệu hộ nghèo bằng nền tảng số.
Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh: đây là giai đoạn “thành công nhất trong nhiều năm trở lại đây”. Ảnh: Hải Nam.
Việc ứng dụng công nghệ không chỉ cải thiện năng suất sản xuất mà còn giúp quản lý chính sách minh bạch, hạn chế sai sót và hỗ trợ đúng đối tượng.
Cục đã đơn giản hóa thủ tục, đồng bộ hóa tiêu chí, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và sử dụng dữ liệu số để theo dõi và hỗ trợ kịp thời.
Khó khăn lớn là sự không đồng bộ về thời điểm giải ngân vốn. Giải pháp là xây dựng tiêu chí chung và cơ chế điều phối thống nhất để giảm áp lực thủ tục cho địa phương.
Hợp tác xã – cầu nối hiệu quả giữa hộ nghèo và doanh nghiệp
Cục đã triển khai các mô hình hợp tác xã kiểu mới để tạo việc làm cho hộ nghèo như thế nào?
Ông Lê Đức Thịnh: Cả nước đã thành lập gần 10.000 hợp tác xã mới, nâng tổng số lên khoảng 23.000. Đặc biệt, nhiều hợp tác xã được hình thành ở vùng khó khăn, trở thành “đầu kéo” cho hộ nghèo tham gia chuỗi giá trị.
“Hợp tác xã không cần hoành tráng,” ông nói. “Nhưng nó gom được lực lượng, giúp doanh nghiệp ký hợp đồng, giúp người nghèo có đầu ra ổn định.”
Doanh nghiệp khó có thể liên kết trực tiếp từng hộ, nhất là hộ nghèo. Nhưng khi họ làm việc với hợp tác xã – dù quy mô nhỏ – thì khối lượng sản phẩm đủ lớn để tham gia thị trường.
Ước tính khoảng 30.000 hộ nghèo đã hưởng lợi trực tiếp từ việc tham gia các mô hình liên kết qua hợp tác xã. Các sản phẩm OCOP – với hơn 17.000 sản phẩm – cũng là cú hích mạnh, giúp người dân nâng chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường.
Chúng tôi khuyến khích hợp tác xã gắn với chuỗi giá trị, phát triển tổ chức nông dân và mô hình hộ đầu kéo. Mô hình này giúp nhiều hộ nghèo tham gia sản xuất, tăng thu nhập và tránh manh mún.
Bài học quan trọng nhất từ giai đoạn 2021–2025 là gì, thưa ông?
Ông Lê Đức Thịnh: Phối hợp liên ngành; đầu tư hạ tầng; phát triển sinh kế; đổi mới cơ chế hỗ trợ; có cơ chế đặc thù cho vùng lõi nghèo; và nâng cao vai trò hợp tác xã.
Dù đạt nhiều thành tựu, nhưng phải thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn một số hạn chế lớn bao gồm:
Tính bền vững chưa cao; Nhiều hộ cận nghèo chỉ cần gặp rủi ro nhỏ – thiên tai, dịch bệnh, mất việc – là có thể rơi trở lại nhóm nghèo. Chính sách còn nặng cấp phát, thiếu các cơ chế khuyến khích sản xuất; Vùng lõi nghèo chưa được đầu tư đủ mạnh. Cụ thể, các huyện nghèo “lõi” có tỷ lệ nghèo cao (20% trở lên) cần mức hỗ trợ vượt trội. “Lẽ ra phải gấp 5–10 lần vùng thường,” ông Thịnh nhấn mạnh.
Thiếu cơ chế ứng phó rủi ro và biến đổi khí hậu
Các chính sách về bảo hiểm sản xuất, dự báo thiên tai, tín dụng chống rủi ro… còn hạn chế, chưa đủ giúp người nghèo vượt qua các cú sốc; Tâm lý ỷ lại vẫn còn
Tôi cho rằng, gốc rễ không nằm ở người dân mà ở cơ chế cấp phát chưa tạo động lực. Vì vậy cần đề xuất chuyển sang hỗ trợ theo kết quả đầu ra và mở rộng hỗ trợ cho hộ khá, hộ đầu kéo vì họ có khả năng “kéo” hộ nghèo tham gia mô hình sản xuất hiệu quả.
Cục có định hướng và khuyến nghị gì cho các địa phương cho giai đoạn 2026-2030?
Ông Lê Đức Thịnh: Tập trung sinh kế bền vững; tăng đầu tư cho vùng lõi nghèo; phát triển bảo hiểm và tín dụng rủi ro thấp; ứng dụng dữ liệu số; và vận hành hiệu quả chương trình mới sau khi nhập ba chương trình mục tiêu.
Chuyển sang hỗ trợ theo kết quả đầu ra; ưu tiên vùng lõi nghèo; mở rộng bảo hiểm nông nghiệp; khuyến khích mô hình hợp tác xã – doanh nghiệp – hộ; và đồng bộ hóa giải ngân khi nhập chương trình.
Theo đó, giai đoạn sau 2025 cần tập trung vào bốn trụ cột: Sinh kế bền vững gắn với thị trường, thay cho hỗ trợ trực tiếp. Tiếp đến là đầu tư mạnh cho vùng lõi nghèo, tạo sự khác biệt rõ trong phân bổ nguồn lực. Thứ ba, phải tạo khung chính sách bảo hiểm – tín dụng chống rủi ro cho người nghèo. Và điểm cuối là đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác, coi hợp tác xã là hạt nhân của liên kết sản xuất.
Xin trân trọng cảm ơn ông!












![Le lói hy vọng núi rừng: [Bài 3] Cây lúa cúi đầu, hạt cốm dẻo thơm](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/hieupt/2025/11/12/5238-z6997861506782_c57d436b24a7f60fc9b51ad9d9bcddee-024711_269.jpg)


![Đại điền thoát nghèo: [Bài 3] Lấy thân mình che kho thóc](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/11/17/4027-dai-dien-thoat-ngheo-mau-va-hoa-iii-nguoi-lay-than-minh-che-cho-kho-thoc-180918_845.jpg)
![Những người không cam phận nghèo: [Bài 4] Tỷ phú trồng hoa nơi nắng gió](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/tiepld86/2025/10/25/4050-anh-huy-nongnghiep-174045.jpg)