Vốn liếng một đời của Anh hùng đa dạng sinh học ASEAN
Căn phòng nhỏ, nhưng không chật. Mọi khoảng trống đều có lý do tồn tại, sách, bản đồ, những tập tài liệu dày cộp kẹp giấy nhớ, ảnh chụp rừng, ảnh chụp người đứng dưới rừng, ảnh những buổi gắn bia “Cây Di sản Việt Nam”. Ở giữa tất cả là chiếc bàn gỗ cũ, trên đó một ấm trà còn ấm tay. Sau ấm trà là ông.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh nay đã ở tuổi mà người ta thường gọi là “xưa nay hiếm”, nhưng thật khó để dùng hai chữ “đã già” với ông. Mắt ông vẫn sáng, giọng nói vẫn khỏe khoắn, đều đặn.
Góc đời bình dị của một nhà khoa học lão thành - GS. TSKH Đặng Huy Huỳnh. Ảnh: Tú Thành.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh không chỉ được nhắc đến như nhà khoa học. Với nhiều thế hệ làm việc trong lĩnh vực môi trường, đa dạng sinh học, ông gần như là một biểu tượng, một “cây đại thụ” trong ngành. Người ta gọi ông bằng những danh xưng dài đến mức ghi ra giấy phải xuống dòng: Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học; Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam; Chủ tịch Hội đồng Cây Di sản Việt Nam; Chủ tịch Hội Động vật học Việt Nam; Anh hùng đa dạng sinh học ASEAN... Nhưng nếu lắng nghe chính ông kể, thì ông chỉ tự nhận mình là “một người đi rừng lâu năm”.
Ông nhắc lại thời trai trẻ đi rừng Trường Sơn, vượt suối, leo dốc, ngủ võng, ăn rau rừng: “Tôi biết ơn rừng. Rừng che chở, nuôi dưỡng mình trong chiến tranh, và sau chiến tranh lại cho mình một con đường để theo khoa học”.
Ở tuổi của ông, nhiều người đã dừng bước. Còn ông, người ta vẫn thấy ông trèo đèo, lội suối, có mặt tại các buổi đi thực địa, các lễ công nhận Cây Di sản ở tận bản cao, đảo xa… Ông bảo rằng, năng lượng tích cực là thứ duy nhất ông cố tình "gieo" cho mọi người. Ông không thích than vãn, không thích kể lể công lao, càng không thích bị xem là "nhân chứng sống" theo kiểu được trưng bày. Khi nói chuyện, ông luôn nói về việc chung, về đất nước, về ngành, về người dân. Rất ít khi ông nhắc đến bản thân.
Nhưng những gì ông đã làm thì lại quá cụ thể, không thể khiêm tốn đi được.
Cả đời làm khoa học của ông gắn liền với đất đai, với rừng, với tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam. Ông là đồng tác giả của những công trình lớn như bộ Atlas quốc gia, các tập Động vật chí, Thực vật chí, Sách đỏ Việt Nam… Những đóng góp ấy mang lại cho ông hai Giải thưởng Hồ Chí Minh - phần thưởng khoa học cao quý nhất trong của Việt Nam về khoa học công nghệ, cùng nhiều giải thưởng Môi trường Việt Nam, bằng khen về thành tích xuất sắc trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học…
Năm 2017, khi ASEAN tròn 50 năm, ông được vinh danh là Anh hùng đa dạng sinh học ASEAN - một trong số rất ít người ở khu vực được ghi nhận ở tầm đó. Khi nghe lại chuyện này, ông chỉ cười: “Đấy là sự ghi nhận chung cho nỗ lực bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của đất nước mình, chứ đâu phải của riêng tôi”.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh thăm khu trưng bày của Bộ Nông nghiệp và Môi trường tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Hôm gặp, ông đưa tôi xem một bức ảnh mới chụp. Trong ảnh, ông đứng bên khu trưng bày của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, nơi giới thiệu các nhà khoa học có đóng góp đặc biệt tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia. Ông bảo: “Cũng mừng là đến lúc này, chúng ta coi nông nghiệp, môi trường, coi tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học… như một phần không thể tách ra khỏi phát triển”.
Câu nói mở ra cả một khoảng rộng. Bởi vì, tất cả những điều ông sắp nói sau đó không chỉ là chuyện của riêng ông, mà là câu chuyện 80 năm dựng nên ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam.
Nông nghiệp và Môi trường: 8 thập kỷ chuyển mình toàn diện
Bên ấm trà trong phòng khách của mình, ông trò chuyện về niềm vui và trách nhiệm nhân dịp ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam tròn 80 năm. Ông hồ hởi khi nói về một chặng đường dài đầy gian khó, song cũng đầy ánh hào quang. Giờ đây, sau 8 thập kỷ, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn trở thành điểm sáng xuất khẩu nông sản thế giới. "Sau Cách mạng Tháng Tám, dân ta từng nghèo đói triền miên, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đến nay hàng trăm triệu dân không còn chịu cảnh ‘nhịn đói’, nay gạo Việt Nam nhiều năm đứng nhóm đầu về xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản đã có tên trên thế giới, đưa tên tuổi Việt Nam trải dài khắp bản đồ nông nghiệp toàn cầu”, GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh chia sẻ.
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 (1945-2025), đánh dấu một chặng đường phát triển không ngừng của ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam, trụ cột của nền kinh tế, nền tảng của an sinh xã hội và môi trường sống bền vững, đối với ông không phải chỉ là một dịp lễ trang trọng. Ông gọi đó là “một niềm vui thật sự, của người dân Việt Nam. Tôi rất tự hào. Không riêng tôi đâu, ai cũng tự hào”.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh (đứng giữa) gặp gỡ lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Ông nhắc lại thời đất nước vừa giành độc lập, khi Bác Hồ nói phải đánh ba thứ giặc: Giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt. Ngày đó, đói không phải là khái niệm chính sách. Đói là nồi cơm trong nhà không đủ. “Gần trăm năm thực dân đô hộ, dân ta nghèo đói, cực nhọc, cũng đất như thế, cũng nước như thế, cũng rừng như thế mà người dân không đủ ăn, không đủ mặc. Nhưng sau Cách mạng Tháng Tám, từ một nền nông nghiệp thô sơ, ta dần xây dựng được một nền nông nghiệp vừa phù hợp điều kiện sinh thái, vừa hướng tới hiện đại. Đấy là cả một sự thay đổi tư duy rất lớn, đổi mới trong cách nghĩ, cách làm”, ông nói.
Rồi ông gõ nhẹ ngón tay xuống bàn theo từng ý, như đếm: Thành tựu thứ nhất, theo ông, là Việt Nam đã thoát khỏi nạn đói kinh niên. “Cho đến nay, hàng trăm triệu người dân Việt Nam không còn đói như xưa nữa. Có thể còn nghèo, nhưng không còn đói. Không chỉ đủ ăn, chúng ta còn dư lương thực để xuất khẩu. Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu về xuất khẩu gạo, rồi sản phẩm từ cây công nghiệp, trái cây, thủy sản… Nghĩa là từ chỗ chống đói, mình đi tới chỗ làm giàu bằng nông nghiệp”.
Theo ông, thành tựu thứ hai là giải phóng sức lao động của người nông dân. “Ngày xưa ‘bán mặt cho đất, bán lưng cho trời’, chân lấm tay bùn, mưa bão cũng phải ra đồng. Tôi chứng kiến rồi, cả một ký ức bùn lầy, lưng còng, mưa táp vẫn còn đó. Nhưng đến nay, ở hầu hết các vùng nông thôn, đồng bằng, thậm chí kể cả vùng núi, bà con dùng máy móc, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất. Công nghệ tiên tiến giúp người dân đỡ khổ hơn nhiều. Đấy là thay đổi rất lớn”.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh là một trong những người đầu tiên xây dựng bộ sách động vật chí, thực vật chí, sách đỏ, danh lục đỏ Việt Nam. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Thành tựu thứ ba, theo ông, là bước chuyển từ kiểu làm nông nghiệp cũ sang nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh, carbon thấp và tiến tới tích trữ carbon. “Tức là mình bỏ dần kiểu sản xuất gây hại môi trường. Mình đi theo hướng vừa sản xuất, vừa bảo vệ hệ sinh thái. Ngay cả những công nghệ rất mới như ứng dụng trí tuệ nhân tạo giờ cũng được đưa vào áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, môi trường”.
Và thành tựu thứ tư là vị thế nông sản Việt Nam. “Hiện nay sản phẩm nông nghiệp của nước ta có mặt ở gần 200 nước. Việt Nam nằm trong khoảng 15 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu nông sản, và đứng thứ 2 Đông Nam Á. Hạt gạo, con cá, trái cây sạch đi ra nước ngoài không chỉ là hàng hóa, nó còn mang theo văn hóa của Việt Nam, văn hóa biết yêu thiên nhiên, trân trọng thiên nhiên, gìn giữ và nuôi dưỡng thiên nhiên”.
Chỉ lấy lãi, không ăn vào vốn
Nhưng với một nhà khoa học như ông, không gì khiến ông xúc động bằng câu chuyện của rừng…
Ông ngồi thẳng dậy hẳn khi nói đến rừng.
Ông nhắc lại một con số như đã nằm lòng: Năm 1943, thời Pháp thuộc, người ta đo độ che phủ rừng ở Việt Nam là khoảng 43%. “Hơn 80 năm trôi qua, trải qua chiến tranh, bom đạn, chất độc hóa học, chặt phá, đốt nương…, vậy mà đến 2025, độ che phủ rừng của chúng ta đã phục hồi, trở lại mức hơn 42%, cụ thể là 42,03%”.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh chia sẻ: “Tài nguyên là vốn, chỉ được dùng cái lãi”, nhấn mạnh bảo tồn đi đôi phát triển. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Rồi ông đọc ra một hệ thống con số đồ sộ như đọc gia phả. Ông ngẩng lên nhìn tôi: “Đấy là vốn liếng của quốc gia, chứ không chỉ là cây đâu”.
Rừng, theo ông, là tuyến phòng thủ mềm nhưng mạnh cho tương lai Việt Nam, góp phần ổn định nông nghiệp, giữ đất, giữ nước, thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu; tạo ra thị trường carbon và đóng góp trực tiếp vào cam kết hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; là lá chắn trước bão lũ, là chỗ dựa sinh kế cho cộng đồng; là nền tảng cho hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên.
Ông tự hào kể rằng trong 80 năm qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng được một mạng lưới bảo tồn đồ sộ với 178 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 34 vườn quốc gia, 56 khu bảo tồn thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 54 khu bảo vệ cảnh quan, 12 khu dự trữ sinh quyển, 10 khu Ramsar và 10 khu vườn ASEAN.
Ông coi đó là một biểu hiện thay đổi tư duy quản lý tài nguyên: từ chỗ chỉ khai thác, bây giờ chuyển sang “khai thác thông minh”, tức là vừa sử dụng, vừa bảo tồn, coi tài nguyên thiên nhiên như một nguồn vốn tự nhiên phải giữ gìn. Ông nói chậm, nói rõ: “Tài nguyên là vốn. Mình chỉ được phép dùng cái lãi. Còn vốn phải để lại cho con cháu. Nếu mình ăn vào vốn thì thế hệ sau lấy gì để sống?”
GS. TSKH Đặng Huy Huỳnh kể tiếp về một kho tàng khổng lồ rằng, hiện nay Việt Nam đã thống kê được khoảng 51.400 loài sinh vật phân bố trên cạn, dưới biển, vùng đất ngập nước. Riêng thực vật bậc cao có mạch khoảng 11.900 loài, thực vật bậc thấp khoảng 4.528 loài. Động vật hoang dã trên cạn là khoảng 25.031 loài. Sinh vật biển khoảng 11.000 loài. Có khoảng 7.500 chủng vi sinh vật, 1.100 loài cá nước ngọt, 2.038 loài cá biển, 12.500 loài côn trùng.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh chia sẻ, ông rất tâm đắc câu nói của Thân Nhân Trung được trích dẫn trên tường của một trường đại học. Ảnh: Nhân vật cung cấp.
Ông luôn nhắc, mỗi loài đều có chức năng sinh thái riêng, mất một loài là xô lệch cả hệ sinh thái. Ông kể về những cái bẫy thú rải dày trong rừng, về những tấm lưới tận diệt chim trời, về những hàng lồng chim bán ven đường quốc lộ, về những quán nhậu quảng cáo “chim rừng, thú rừng”. Ông day dứt: “Nếu cứ như thế, thì làm sao thiên nhiên còn chỗ mà thở?”
Ông đặt vấn đề rất thẳng: bảo tồn đa dạng sinh học không thể tách khỏi cộng đồng địa phương. Không thể chỉ treo khẩu hiệu “cấm chặt phá rừng”, “cấm săn bắn” mà không để ý đến cuộc sống của người dân. Ông nói: “Quanh rừng hiện nay là khoảng 25 triệu người, tức là 1/4 dân số cả nước. Người ta sống nhờ rừng, sinh kế dựa vào rừng. Muốn rừng còn thì phải để người dân sống được từ việc bảo vệ rừng. Phải coi họ là chủ thể, chứ không thể coi họ là đối tượng quản lý”.
Quan điểm của ông nghe trong việc giao khoán bảo vệ rừng, để dân vừa có thu nhập, vừa có trách nhiệm. Cần quan tâm hơn nữa việc xây dựng các mô hình sinh kế từ rừng như du lịch sinh thái, thu hái lâm sản phụ một cách bền vững, trồng dược liệu dưới tán rừng, chế biến nông lâm sản sạch… để người dân “làm giàu từ rừng mà vẫn giữ được rừng”.
Nghe ông nói đến đây, tôi chợt nhớ đến câu thơ “Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”. Ở ông, tất cả những hệ thống chính sách, những chiến lược lớn lao, cuối cùng vẫn quay lại chỗ ấy: của dân, do dân, vì dân. Ông nói: “Tài nguyên là của dân. Phát triển cũng vì dân. Chỉ có như vậy thì mới huy động được toàn lực”.
Cây Di sản: Khi người dân làm chủ cuộc bảo tồn
Khi câu chuyện tưởng như đã đi hết một vòng lớn của nông nghiệp, môi trường, thì ông chậm rãi trở về điều ông tâm đắc: Cây Di sản Việt Nam.
Ông kể, sau khi nghỉ hưu 30 năm trước, ông vẫn không chịu ngồi yên. “Tôi nghĩ đơn giản lắm. Mình được Đảng, Nhà nước, nhân dân đào tạo bài bản, cho ăn học đàng hoàng, thì đến khi tuổi cao sức yếu cũng phải cố góp lại cái gì đó. Dù nhỏ”. Và điều “nhỏ” mà ông chọn là đi gìn giữ các cây cổ thụ.
Với ông, nói về cây cũng là nói về người. Mỗi cổ thụ là chứng nhân của lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng và bản sắc sinh thái của từng làng, từng xã: có cây giữa sân đình, có cây bên chùa, có cây bám núi cao rừng sâu, có cây đứng nơi đảo xa che bóng cho chiến sĩ.
Từ cách nhìn đó, ông cùng các GS, TS, nhà khoa học ở Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đề xuất lập Hội đồng Cây Di sản Việt Nam, xây dựng bộ tiêu chí xét công nhận nghiêm ngặt, cụ thể về tên khoa học của cây, xác định tuổi cây, chu vi, đường kính, chiều cao, các giá trị của cây về văn hóa, lịch sử, xã hội và giáo dục... để đánh thức ý thức bảo vệ.
GS.TSKH. Đặng Huy Huỳnh trao Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam tại tỉnh Quảng Nam. Ảnh: VACNE.
Từ năm 2010 đến nay, Hội đồng Cây Di sản Việt Nam đã khảo sát, lập hồ sơ và trình công nhận hơn 8.500 cây di sản tại 34 tỉnh, thành trong cả nước. Ông nói: “Điều đáng quý nhất là phong trào hoàn toàn xuất phát từ cộng đồng. Người dân tự đăng ký, tự đề nghị bảo vệ cây của làng mình. Chúng tôi chỉ xác nhận và gắn bia”.
Trong trí nhớ ông là cả một bản đồ cảm xúc: từ Thủ đô Hà Nội, nơi còn những hàng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi cho đến vùng núi cao như Fansipan; từ Tây Nguyên với những khu rừng pơ-mu với số lượng hàng nghìn cây, trong đó có hơn 1.600 cây đã được công nhận là “quần thể cây di sản”; cho tới các đảo ngoài Trường Sa, nơi những cây bàng vuông, phong ba hơn 300 năm tuổi vừa cho bóng mát, vừa làm mốc khẳng định sự có mặt bền bỉ của người Việt trên biển đảo.
Ông chậm rãi kể khi nhắc về hai cây táu ở Thiên Cổ Miếu (Việt Trì, Phú Thọ), đã hơn 2.200 năm tuổi, gắn với câu chuyện về người thầy giáo dạy con gái vua Hùng thứ 8. Ngày thầy mất, dân lập mộ và trồng cây bên mộ để tưởng nhớ. Hai thiên niên kỷ trôi qua, cây vẫn đứng đó, tỏa bóng. “Bảo vệ cây di sản Việt Nam, không chỉ là bảo vệ cây. Đó là bảo vệ nền văn hóa tốt đẹp của người Việt ở khắp mọi miền”.
Ông nhìn lại hành trình ấy và gọi đó là một phần đóng góp cho ngành Nông nghiệp và Môi trường. Vì ở đó, cây không chỉ là cây. Cây còn là không gian tinh thần của cộng đồng. Cây còn là công cụ ứng phó biến đổi khí hậu rất cụ thể: tán cây làm dịu mưa lớn, làm chậm dòng chảy, chống lũ quét; thân cây tạo lực cản gió; bộ rễ giữ đất, nuôi nước ngầm.
Và từ cây, ông trở lại với con người.
Ông nhắc đi nhắc lại vai trò cộng đồng. Bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý động vật hoang dã, chống săn bắt tận diệt, giảm thiểu ô nhiễm môi trường… tất cả không thể thành công nếu người dân không được nhìn nhận như chủ thể, không được chia sẻ lợi ích chính đáng từ tài nguyên. Ông nói đó cũng là tinh thần của các điều khoản chia sẻ lợi ích trong Công ước về Đa dạng sinh học, người bảo vệ tài nguyên phải được hưởng lợi từ tài nguyên, nhưng hưởng theo cách bền vững. “Anh chỉ được lấy cái lãi, chứ không được ăn vào vốn”, ông lặp lại.
Cuối buổi trò chuyện, ông đan hai tay vào nhau, nhìn ra con ngõ nhỏ trước nhà như nhìn qua nhiều lớp thời gian. Ông nói về niềm tin. Rằng sau 80 năm, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã đi từ “chống đói” tới “làm giàu bằng cách thuận thiên”. Rằng tư duy quản lý bây giờ đã khác: tư duy quản lý chuyển từ giấy tờ sang thực chứng ở cơ sở, từ chỗ chỉ khai thác thuần túy sang bảo tồn để phát triển, từ chỗ coi đa dạng sinh học là chuyện của mấy nhà khoa học sang coi đó là tài sản chiến lược của quốc gia.




























