| Hotline: 0983.970.780

Giữ chân trí thức, thu hút nhân tài để phát triển công nghệ cao

Chủ Nhật 21/09/2025 , 14:52 (GMT+7)

Việt Nam đặt mục tiêu đào tạo và giữ chân nhân lực công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035, coi đây là chìa khóa nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng chuyển đổi số và chuyển đổi xanh diễn ra mạnh mẽ, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ trở thành yếu tố quyết định sức cạnh tranh quốc gia.

Thực hiện Quyết định số 1002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) đã ban hành Công văn số 5695/BGDĐT-GDĐH, triển khai Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035, định hướng đến năm 2045.

Đổi mới toàn diện đào tạo STEM

Theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT, các cơ sở giáo dục đại học cần rà soát và đổi mới chương trình đào tạo các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM) để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và tiếp cận chuẩn quốc tế. Những lĩnh vực mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học (Biotech), khoa học dữ liệu, thiết kế vi mạch… sẽ được ưu tiên phát triển theo mô hình liên ngành.

TS. Nguyễn Việt Hoài (ngoài cùng bên trái) hướng dẫn sinh viên của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Đại học Việt Nhật (Đại học Quốc gia Hà Nội) cách sử dụng thiết bị phân tích hiện đại. Ảnh: Mai Anh.

TS. Nguyễn Việt Hoài (ngoài cùng bên trái) hướng dẫn sinh viên của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Đại học Việt Nhật (Đại học Quốc gia Hà Nội) cách sử dụng thiết bị phân tích hiện đại. Ảnh: Mai Anh.

Đặc biệt, Bộ khuyến khích áp dụng mô hình giáo dục hội tụ, kết hợp đào tạo số và các phương thức hiện đại. Không chỉ dừng lại ở khối kiến thức lý thuyết, người học sẽ được trải nghiệm thực hành tại doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các dự án khởi nghiệp sáng tạo.

Điểm khác biệt quan trọng của Đề án là gắn chặt đào tạo với nghiên cứu và sáng tạo công nghệ. Sinh viên không chỉ học để lấy bằng mà phải tham gia trực tiếp vào các đề tài, dự án, qua đó hình thành năng lực nghiên cứu và tư duy đổi mới sáng tạo.

TS. Nguyễn Việt Hoài, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan trắc và Mô hình hóa Môi trường (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, Đề án này sẽ giúp Việt Nam tạo ra thế hệ nhân lực có thể hòa nhập nhanh vào chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao đang thay đổi từng ngày.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đề án là xây dựng cơ chế để thu hút, trọng dụng và giữ chân đội ngũ giảng viên, nhà khoa học giỏi. Bộ GD-ĐT yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học gắn kết đào tạo nhân lực chất lượng cao với việc mời gọi các tiến sĩ, chuyên gia STEM đang làm việc ở nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu tại Việt Nam. Đồng thời, giảng viên trẻ sẽ được ưu tiên hỗ trợ về điều kiện làm việc, sinh hoạt và nghiên cứu để yên tâm gắn bó lâu dài.

PGS. TS. Nguyễn Hoản, Thường trực Ban Truyền thông và Tư vấn tuyển sinh, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chia sẻ: “Để giữ chân nhân lực giỏi, chính sách đãi ngộ cần đi kèm với cơ hội phát triển nghề nghiệp. Ngoài lương và điều kiện làm việc, quan trọng hơn là họ phải được tham gia vào các chương trình nghiên cứu, chuyển giao công nghệ quy mô lớn, có tính chiến lược. Khi thấy công sức của mình đóng góp trực tiếp cho sự phát triển đất nước, các nhà khoa học sẽ có động lực gắn bó lâu dài”.

Cùng với đó, Bộ GD-ĐT khuyến khích các cơ sở giáo dục triển khai mô hình hợp tác công - tư, xây dựng trung tâm đào tạo và nghiên cứu xuất sắc trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược. Doanh nghiệp không chỉ là nơi tiếp nhận nhân lực mà còn tham gia trực tiếp vào thiết kế chương trình đào tạo, đặt hàng nghiên cứu, cấp học bổng và hỗ trợ phòng thí nghiệm.

Nâng cấp cơ sở vật chất, mở rộng hợp tác quốc tế

Một điểm nhấn khác của Đề án là đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ đào tạo công nghệ cao. Các trường đại học được khuyến khích nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm, học liệu số và hạ tầng nghiên cứu, đồng thời chia sẻ nguồn lực với doanh nghiệp và các viện nghiên cứu.

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế được coi là chìa khóa quan trọng. Các cơ sở giáo dục đại học cần mở rộng quan hệ với những đại học, viện nghiên cứu uy tín ở các quốc gia phát triển, kết nối với tập đoàn công nghệ lớn để trao đổi kinh nghiệm và đồng phát triển chương trình đào tạo. Qua đó, sinh viên và giảng viên Việt Nam có cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, chuẩn mực toàn cầu ngay từ trong quá trình học tập.

GS. Marta, Trường Đai học Y Wroclaw (Ba Lan) đến trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) để bàn về hợp tác dự án liên quan đến ứng dụng công nghệ sinh học trong y tế và môi trường. Ảnh: Mai Anh.

GS. Marta, Trường Đai học Y Wroclaw (Ba Lan) đến trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) để bàn về hợp tác dự án liên quan đến ứng dụng công nghệ sinh học trong y tế và môi trường. Ảnh: Mai Anh.

TS. Nguyễn Việt Hoài cho rằng, việc quốc tế hóa đào tạo không chỉ dừng ở các chương trình liên kết 2+2 hay 3+2, mà còn cần đi xa hơn. “Chúng ta phải tạo ra mạng lưới nghiên cứu xuyên quốc gia, nơi các nhà khoa học Việt Nam tham gia như một mắt xích quan trọng. Khi đó, tri thức và công nghệ được chuyển giao hai chiều, nhân lực trong nước sẽ trưởng thành nhanh hơn nhiều", ông nhấn mạnh.

Đề án đào tạo nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 đặt mục tiêu hình thành đội ngũ nhân lực tài năng, có khả năng đảm nhận vai trò chủ chốt trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ chiến lược. Đây cũng là bước chuẩn bị để Việt Nam thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn, đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức, xanh và bền vững.

Nhìn về tương lai, PGS. TS. Nguyễn Hoản kỳ vọng: “Nếu thực hiện tốt, Đề án không chỉ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghệ cao, mà còn góp phần hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện, nơi nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà nước cùng hợp tác, cùng hưởng lợi”.

Chương trình liên kết 2+2 hay 3+2 nghĩa là sinh viên học một số năm đầu tại Việt Nam (ví dụ 2 năm hoặc 3 năm), sau đó chuyển sang trường đối tác ở nước ngoài để hoàn thành phần còn lại của chương trình (2 năm cuối) và nhận bằng từ trường quốc tế đó. Đây là các mô hình liên kết đào tạo quốc tế.

Xem thêm