Ngày 25/9, tại Hà Nội, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ NN-MT) đã tổ chức Hội thảo tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí methan. Sự kiện không chỉ phổ biến thông tin khoa học mà còn thúc đẩy các hành động giảm phát thải khí nhà kính tại Việt Nam, trong đó có methan.
Mục tiêu giảm 30% phát thải CH4 vào năm 2030
Trong ứng phó biến đổi khí hậu, việc giảm phát thải khí CH4 rất quan trọng bởi đây là khí nhà kính có có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu gấp 28 lần so với CO2. Theo nghiên cứu của Ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), mức tăng nồng độ CH4 trong khí quyển là tác nhân thứ hai sau CO2 và làm tăng 0,3 độ C trong tổng số 1,1 độ C mức tăng nhiệt độ toàn cầu thời gian qua.
Bà Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Tại Hội nghị COP 26, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và tham gia Cam kết giảm phát thải khí methan toàn cầu, với mục tiêu giảm 30% phát thải methan toàn cầu vào năm 2030 so với mức phát thải năm 2020.

Bà Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ NN-MT) chia sẻ về cam kết của VIệt Nam trong giảm phát thải khí Methan. Ảnh: Quang Huy.
Để triển khai thực hiện cam kết này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 và Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 5/8/2022 phê duyệt Kế hoạch hành động giảm phát thải khí methan đến năm 2030. “Việc hiện thực hóa các cam kết về giảm phát thải khí methan sẽ góp phần tăng cường hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế Việt Nam trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu” – bà Mai Kim Liên khẳng định.
Giảm phát thải khí methan cũng chính là một trong những giải pháp trọng tâm, vừa mang lại hiệu quả giảm phát thải khí nhà kính, vừa tạo ra cơ hội để nâng cao hiệu quả sản xuất, mang lại việc làm, đổi mới công nghệ. Vấn đề này đã được các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực nhấn mạnh, đặc biệt là trong phát triển kinh tế tuần hoàn, gia tăng giá trị cho chuỗi sản xuất nông nghiệp của Việt Nam.
Trong lĩnh vực trồng trọt, PGS-TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường nông nghiệp (Bộ NN-MT) cho rằng, việc chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thích ứng với biến đổi khí hậu và có nhu cầu nước thấp là hướng đi cần thiết. Cùng với đó, các biện pháp kỹ thuật như rút nước giữa vụ (AWD), hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) hay các mô hình sản xuất lúa chất lượng cao phát thải thấp trong các dự án AgreSults, TRVC đã chứng minh hiệu quả rõ rệt.
Vấn đề xử lý rơm rạ sau thu hoạch cũng góp phần giảm phát thải đáng kể trong sản xuất lúa, với những cách làm như vùi ngấu trên 30 ngày, vùi khô hoặc kết hợp chế phẩm vi sinh để hạn chế quá trình sinh khí...

PGS-TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường nông nghiệp (Bộ NN-MT) cho rằng cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp trồng trọt có nhu cầu nước thấp. Ảnh: Quang Huy.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, TS. Lê Thị Thanh Huyền, đại diện Viện Chăn nuôi chia sẻ, các giải pháp tập trung chủ yếu vào quản lý chất thải và cải thiện dinh dưỡng vật nuôi. Việc áp dụng công nghệ xử lý chất thải bằng hệ thống hầm biogas giúp thu hồi khí methan sẽ tạo ra năng lượng sạch dưới dạng điện, nhiệt hoặc nhiên liệu sinh học. Khi kết hợp với ủ phân compost hay tách chất thải rắn – lỏng sẽ vừa giảm phát thải, vừa tạo ra nguồn phân bón hữu cơ chất lượng cao.
Song song với đó, việc cải thiện khẩu phần ăn của gia súc thông qua bổ sung phụ phẩm công nghiệp, tảo biển hoặc các chất ức chế sinh methan có thể làm giảm đáng kể lượng khí phát sinh từ quá trình lên men đường ruột ở gia súc nhai lại. Ngoài ra, cải tạo nguồn gen, nâng cao sức khỏe vật nuôi và năng suất chăn nuôi cũng là những biện pháp giúp giảm cường độ phát thải.
Phân loại rác tại nguồn, kinh tế tuần hoàn giúp giảm phát thải
Trong lĩnh vực quản lý chất thải, TS. Lương Quang Huy, đại diện Cục Biến đổi khí hậu cho biết, định hướng quan trọng là tăng cường phân loại rác tại nguồn, bắt buộc tách riêng rác hữu cơ để giảm lượng chôn lấp. Tiếp tục hạn chế dần tỷ lệ chôn lấp rác thải, thay thế bằng các công nghệ hiện đại như đốt rác phát điện; đồng thời lắp đặt hệ thống thu hồi khí methan tại các bãi rác hiện hữu để biến nguồn phát thải thành năng lượng sạch. Nhà nước cũng đang thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn và tái chế chất thải. Việc thực hiện hiệu quả sẽ giúp giảm lượng rác phát sinh và khối lượng cần xử lý, qua đó đóng góp đáng kể vào mục tiêu giảm phát thải.

Đại diện các cơ quan thuộc các Bộ, ngành, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, địa phương cùng các chuyên gia, nhà khoa học tham gia hội thảo. Ảnh: Quang Huy.
Trong ngành khai thác than và dầu khí, ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, đại diện Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhấn mạnh vai trò của việc đổi mới công nghệ, thiết bị mỏ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tiết kiệm năng lượng và kiểm soát phát thải.
Các công trình tháo khí methan trước, trong và sau khai thác hầm lò, đặc biệt là khoan tháo khí trước và trong quá trình khai thác, được đánh giá có tiềm năng giảm phát thải lớn nhất. Theo ước tính, với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, đến năm 2030 ngành than có thể giảm tối đa khoảng 42% lượng khí methan so với năm 2020.
Trong lĩnh vực dầu khí, khí methan phát thải chủ yếu đến từ hoạt động xả khí có chủ đích, rò rỉ tại các van, mặt bích và quá trình đốt khí để giảm áp suất đường ống. Nếu kiểm soát chặt chẽ các hoạt động này, kết hợp với công nghệ hiện có, có thể giảm tới 70% lượng khí methan phát thải từ nhiên liệu hóa thạch trên toàn cầu – một con số mà Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đánh giá là hoàn toàn khả thi.
Trên cơ sở các giải pháp công nghệ, chính sách, mô hình thực tiễn trong nước và quốc tế, các đại biểu đã cùng đã thảo luận, trao đổi và đề xuất các sáng kiến nhằm huy động nguồn lực, tăng cường hợp tác kỹ thuật và xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ cho hoạt động giảm phát thải khí methan tại Việt Nam trong thời gian tới.