Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên và sức ép phát triển kinh tế - xã hội ngày càng lớn, công tác giảm nghèo gắn với quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trở thành yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt tại vùng ĐBSCL, phần lớn sinh kế của người dân nông thôn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Do đó việc triển khai các chính sách hỗ trợ nếu không linh hoạt, đúng hướng, có thể vô tình “cột” nông dân vào cái nghèo.
Nhằm đánh giá, phản biện và gợi mở giải pháp cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường, giảm nghèo ở vùng ĐBSCL hiện nay, Báo Nông nghiệp và Môi trường có cuộc trao đổi với PGS.TS Lê Anh Tuấn - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (nay là Viện Mekong) – Đại học Cần Thơ.

PGS.TS Lê Anh Tuấn - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (nay là Viện Mekong) đánh giá một số chính sách liên quan đến công tác giảm nghèo tại ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
Thưa ông, thời gian qua, nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ nông dân được triển khai nhằm giúp bà con giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, thực tế có ý kiến cho rằng việc hỗ trợ chưa thật sự bền vững, ông nhìn nhận thế nào về vấn đề này?
Việc triển khai chính sách hỗ trợ nông dân chuyển đổi mô hình sinh kế hướng đến mục tiêu giúp bà con giảm nghèo bền vững rất nhân văn. Tuy nhiên, hiện nay nhiều chương trình hỗ trợ chỉ dừng lại ở việc giúp một nhóm hộ hoặc hợp tác xã tăng thu nhập ban đầu, nhưng nói là thành công thì chưa hẳn.
Cái gốc của hỗ trợ phải là giúp nông dân lựa chọn được mô hình phù hợp với điều kiện của mình. Không ai bị ép buộc phải làm theo một mô hình nhất định. Ở vùng ngập lũ, vùng mặn, vùng gò cao… đều cần có nhiều lựa chọn sinh kế khác nhau, để người dân tự cân nhắc, thử nghiệm và nhân rộng dần. Quan trọng hơn, các mô hình phải tạo tính ổn định, vừa sức, không tốn quá nhiều kinh phí đầu tư.
Như vùng ven biển, mô hình lúa tôm, trồng năng tượng đang tạo thu nhập và công ăn việc làm ổn định cho nông dân. Các mô hình này tuy chưa thể giúp nông dân làm giàu, nhưng lại tương đối bền vững, giúp nhiều hộ giảm nghèo và không gây ô nhiễm môi trường.
Hay mô hình trữ nước quy mô hộ gia đình. Địa phương có thể hỗ trợ bà con làm các ao nhỏ, bồn hoặc túi trữ nước. Tuy mô hình không khiến nông dân giàu lên, nhưng lại giúp bà con giảm rủi ro trong mùa khô, cải thiện đời sống và nâng cao chất lượng cuộc sống bền vững hơn nhiều so với việc đầu tư các công trình lớn.
Bên cạnh đó, mô hình nông nghiệp tuần hoàn: trồng cây ăn trái, nuôi ruồi lính đen, lấy ấu trùng làm thức ăn cho gà, cá, vịt… nếu được triển khai ở quy mô lớn có thể giúp nông dân vươn lên làm giàu.
Ngoài ra, mô hình kết hợp trồng lúa, sen, nuôi cá và làm du lịch cũng đang phát triển mạnh. Đặc biệt, nhiều bạn trẻ ngày trước từng phải lao động xa quê, nay đã quay trở về và phát triển mô hình khá thành công.

Mô hình đan đát hàng thủ công mỹ nghệ từ cây năn tượng đang chứng minh hiệu quả giảm nghèo bền vững tại một số địa phương ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
Như vậy để việc triển khai chính sách giảm nghèo hiệu quả hơn, theo ông cần quan tâm những vấn đề gì?
Trước tiên, cần đặt ra một bài toán kinh tế rõ ràng để nông dân lựa chọn, bằng cách so sánh từng loại mô hình sinh kế. Trung bình mỗi nông dân có khoảng 1 ha, với diện tích này, nông dân trồng lúa, rau màu, cây ăn trái, nuôi cá… mô hình nào mang lại lợi nhuận cao hơn.
Lợi nhuận ở đây phải xét ở hai khía cạnh là thu nhập của bà con nông dân và mức độ giảm phát thải – một trong những ưu tiên trong nông nghiệp hiện nay.
Mục đích của các chính sách hỗ trợ là giúp nông dân giảm nghèo, tiến tới thoát nghèo nhưng câu hỏi đặt ra là sự hỗ trợ này được bao lâu và số người nhận được hỗ trợ là bao nhiêu. Do đó, các chính sách cần tập trung vào việc giới thiệu, tìm ra nhiều mô hình sinh kế khác nhau, đảm bảo tính ổn định, giúp nông dân giảm nghèo, có thu nhập khá hơn so với những bà con không áp dụng, chứ không nhất thiết phải làm giàu. Nếu không làm tốt, rất dễ “cột nông dân vào cái nghèo” bằng chính sự hỗ trợ thiếu dài hạn.
Ông có thể chia sẻ những bài học quan trọng trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững gắn quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển nông nghiệp bền vững?
Tôi từng đến Thái Lan và nhận thấy, nông dân nước này không giàu nhưng đời sống khá hơn nông dân Việt Nam. Họ được hỗ trợ rất cụ thể, khi triển khai các chương trình chính quyền xuống tận xã để xem điểm mạnh của địa phương là gì, từ đó đưa ra chính sách đẩy mạnh lợi thế sẵn có, chứ không làm đại trà.

Chính sách hỗ trợ giảm nghèo cần gắn với đa dạng hóa mô hình sinh kế, trong đó nông dân chủ động lựa chọn mô hình phù hợp. Ảnh: Kim Anh.
Tại Việt Nam, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm – OCOP” cũng đã đi đúng hướng, giúp cộng đồng phát triển sản phẩm đặc trưng thay vì “mặc đồng phục” trong sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bài học cần rút ra.
Hay chương trình cánh đồng mẫu lớn từng được xem là mô hình tiêu biểu, nhưng nay khá “lỗ chỗ”. Diện tích bị thu hẹp vì nhiều nông dân chuyển sang trồng cây ăn trái, rau màu, đào ao nuôi cá, vì những mô hình này mang lại lợi nhuận cao hơn lúa. Bài toán kinh tế cho thấy, nếu chỉ so lúa với lúa thì có thể nông dân có lợi nhuận cao hơn khi được hỗ trợ, nhưng so với các mô hình khác thì nông dân không thể khá hơn.
Về chính sách giảm nghèo, cần đa dạng hóa sinh kế thích ứng biến đổi khí hậu. Khi một loại cây trồng hay vật nuôi gặp rủi ro do thời tiết, nông dân có thể dựa vào mô hình khác để bù đắp, giống như không bỏ tất cả trứng vào cùng một rổ.
Vấn đề đáng quan tâm là Trung ương và địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các nhà khoa học. Các nhà khoa học nên được tham gia phản biện chính sách ngay từ đầu, cũng như tham gia vào quá trình đánh giá và điều chỉnh chính sách sau một thời gian thực hiện. Bởi bất kỳ chính sách nào cũng có “vòng đời” của nó, đến một giai đoạn sẽ không còn phù hợp, nếu không kịp thời đánh giá và cập nhật thì sẽ mất đi tính hiệu quả.
Một chính sách tốt không chỉ ở hiệu quả trước mắt, mà còn phải xem nó “sống” được bao lâu, có tính kế thừa, ổn định hay không và đặc biệt là tính độc lập trong đánh giá để đảm bảo mục tiêu giảm nghèo và phát triển bền vững thật sự đi vào cuộc sống.
Xin cảm ơn ông.