Ngày 2/10, Viện Di truyền nông nghiệp phối hợp Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế (CIAT) tổ chức hội thảo về dự án Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong phát triển giống sắn kháng bệnh khảm lá có kiểu hình thân thẳng, hàm lượng tinh bột ổn định, năng suất cao.
Kỳ vọng kháng khảm từ công nghệ phân tử
Việt Nam hiện có khoảng 500.000 – 600.000 ha sắn, sản lượng đạt gần 10 triệu tấn mỗi năm, với hơn 120 nhà máy chế biến đặt tại 27 tỉnh thành. Riêng Tây Ninh có tới 68 nhà máy, chiếm trên một nửa cả nước. Kim ngạch xuất khẩu sắn duy trì ổn định quanh mốc 1 tỷ USD trong suốt 10 năm qua, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn.

Các đại biểu tham dự hội thảo. Ảnh: Trần Trung.
Tuy nhiên, từ năm 2017, virus khảm lá (CMD) xuất hiện và nhanh chóng lây lan, gây thiệt hại nặng nề cho nhiều vùng sản xuất. Căn bệnh này có thể làm giảm năng suất 20 – 90% tùy theo giống, trở thành thách thức lớn nhất của ngành.
Tây Ninh được xem là “thủ phủ cây sắn” của cả nước với diện tích dao động 59.000 – 63.000 ha, đứng thứ hai toàn quốc. Năng suất trung bình đạt khoảng 33,3 tấn/ha. Sản xuất tập trung tại các xã Tân Phú, Tân Hội, Tân Đông, Tân Lập, Thạnh Bình, Cầu Khởi, Phước Vinh, với hai vụ chính là Đông Xuân và Hè Thu, song nông dân có thể trồng, thu hoạch gần như quanh năm. Trên địa bàn hiện có 18 doanh nghiệp chế biến tinh bột sắn quy mô 50 – 300 tấn/ngày và 47 cơ sở nhỏ hơn 50 tấn/ngày. Riêng 9 tháng đầu năm 2025, diện tích xuống giống đạt 46.772 ha, bằng 74% kế hoạch năm.
Bên cạnh vị thế nổi bật, ngành sắn Tây Ninh đang đối diện thách thức lớn từ bệnh khảm lá do virus Sri Lanka gây ra trong 5 năm qua. Dịch bệnh này từng làm giảm ít nhất 30% năng suất tại nhiều cánh đồng, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của hàng chục nghìn hộ nông dân.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tây Ninh Nguyễn Đình Xuân phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Trần Trung.
Ông Nguyễn Đình Xuân, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tây Ninh cho biết thêm, để ứng phó với bệnh khảm, tỉnh đã phối hợp với nông dân, nhà khoa học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp triển khai nhiều giải pháp ứng phó. Người dân áp dụng chọn giống ít nhiễm bệnh, tăng mật độ trồng, kết hợp tăng cường bón phân để duy trì sản lượng, dù chi phí sản xuất có phần đội lên.
Về phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã liên tiếp ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, từ công văn số 410/BVTV-KD (13/3/2017) về ngăn chặn bệnh khảm lá, đến quy trình kỹ thuật phòng trừ (21/7/2017), chỉ thị số 5957/CT-BNN-BVTV (6/8/2018) và công văn số 383/BNN-BVTV (21/1/2019) về kiểm soát dịch, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu giống kháng bệnh.
Những nỗ lực bước đầu giúp ngành sắn có được 6 giống kháng CMD như HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97. Tuy nhiên, đây đều là giống có nguồn gốc từ châu Phi, chủ yếu phục vụ ăn tươi, nhiều nhược điểm như hàm lượng tinh bột biến động, phân cành nhiều và khả năng thích ứng hạn chế.
Trước nhu cầu cấp thiết, từ tháng 1/2023, dự án “Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong phát triển giống sắn kháng bệnh khảm lá” đã chính thức khởi động, kéo dài trong 5 năm (2023 – 2027). Tổng kinh phí thực hiện gần 15 tỷ đồng, trong đó Quỹ Thiện Tâm (Tập đoàn Vingroup) tài trợ chủ lực, cùng sự phối hợp của Liên minh Bioversity, Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế (CIAT) và vốn đối ứng từ người dân.

Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hàm (thứ 3 từ phải sang) giới thiệu dự án. Ảnh: Trần Trung.
Mục tiêu của dự án gồm: Phát triển bộ chỉ thị phân tử có độ tin cậy cao liên quan đến 3 tính trạng: kháng bệnh khảm lá, hàm lượng chất khô và kiểu hình thân thẳng. Chọn tạo ít nhất 3 giống sắn kháng bệnh mới có năng suất tinh bột cao hơn 10% so với đối chứng, thích ứng với 4 vùng sinh thái. Phấn đấu đến cuối 2027, ít nhất 10 ha giống mới được chia sẻ cho các địa phương; vụ 2028 – 2029 có thể mở rộng từ 350 – 400 ha…
Theo các chuyên gia, việc ứng dụng chỉ thị phân tử giúp rút ngắn thời gian chọn giống, nhanh chóng xác định gen kháng bệnh, đồng thời chọn lọc dòng sắn có năng suất cao, thân thẳng, hàm lượng tinh bột ổn định, thay thế cho phương pháp truyền thống vốn kéo dài hàng chục năm.
Bảo vệ sinh kế, mở rộng thị trường xuất khẩu
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, Chủ nhiệm đề tài cho rằng: trước thập niên 1990, cây sắn từng bị xem là cây trồng ít giá trị, diện tích liên tục bị thu hẹp. Nhưng chỉ trong vài thập kỷ, nhờ sự nhạy bén của nông dân và doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ âm thầm của giới khoa học, sắn đã trở thành một trong những cây trồng chủ lực của Việt Nam.

Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam trình bày tại hội thảo. Ảnh: Trần Trung.
Ngành sắn đang chịu áp lực lớn từ bệnh khảm lá. Việc nghiên cứu và đưa vào sản xuất giống sắn vừa kháng bệnh, vừa cho năng suất và hàm lượng tinh bột cao là yêu cầu cấp thiết để bảo vệ sinh kế hàng triệu nông dân. Trong khuôn khổ dự án, các nhà khoa học tập trung vào ba mảng then chốt: Khảo nghiệm giống nhập nội triển vọng để bổ sung nguồn vật liệu kháng bệnh. Lai tạo giống mới, kết hợp gene kháng bệnh với giống bản địa. Ứng dụng công nghệ sinh học, phát triển bộ chỉ thị phân tử phục vụ chọn giống.
“Sau nửa giai đoạn thực hệ dự án, nhiều kết quả tích cực đã được ghi nhận, Những nỗ lực này không chỉ giúp khắc phục hạn chế của giống, mà còn mở ra hướng đi bền vững, tạo nền tảng cho ngành sắn Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới – hiện đại, an toàn dịch bệnh và có giá trị xuất khẩu cao hơn”, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hàm nhấn mạnh.
Đánh giá tại Hội thảo khoa học “Đột phá trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh khảm lá bằng công nghệ phân tử”, TS. Đinh Công Chính, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, nhấn mạnh đây là diễn đàn quan trọng để chia sẻ kết quả nghiên cứu, đồng thời khẳng định vai trò của công nghệ sinh học – đặc biệt là chỉ thị phân tử – trong công tác chọn tạo giống kháng bệnh.
Theo TS. Chính, sắn hiện là cây lương thực có diện tích lớn thứ ba tại Việt Nam (sau lúa và ngô). Từ cây trồng gắn liền với xóa đói giảm nghèo, sắn đã vươn lên thành cây làm giàu, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, trong đó có nhiên liệu sinh học, và là sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia.

Việc ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh khảm lá, mở ra hướng đi mới cho ngành sắn Việt Nam. Ảnh: Trần Trung.
Tuy nhiên, ngành hàng này vẫn bộc lộ hạn chế: tính bền vững chưa cao, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến còn lỏng lẻo. Đặc biệt, bệnh khảm lá có nơi gây thiệt hại tới 74,5%. Vì vậy, thành công của các dự án nghiên cứu giống kháng bệnh không chỉ bảo vệ sinh kế cho hàng triệu nông dân, mà còn đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho các nhà máy, nâng cao năng lực cạnh tranh của sắn Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việc ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh khảm lá, không chỉ mở ra hướng đi mới cho ngành sắn Việt Nam mà còn khẳng định vai trò đồng hành của khoa học với thực tiễn sản xuất.