Gặp 'cha đẻ' của kiệt tác hồ treo trữ nước đầu tiên trên cao nguyên đá

 Hồ treo Sà Phìn (Đồng Văn) và hồ treo Tả Lủng (Mèo Vạc) - hai hồ treo trữ nước đầu tiên được xây dựng trên cao nguyên đá Hà Giang vào năm 2002, từ đó gợi mở cho vùng cực Bắc một giải pháp thực sự hiệu quả: thu gom nước từ vách đá, từ đó góp phần giải bài toán thiếu nước triền miên của hơn 100.000 đồng bào ngàn đời định cư trên vùng đất khô hạn này.

 Sáng kiến để ra đời hai công trình đầu tiên có tính chất gợi mở này là nhóm các nhà khoa học, gồm: PGS.TSKH Vũ Cao Minh, TS Vũ Văn Bằng, KS Nguyễn Chí Tôn (Viện Các khoa học trái đất - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Tháng 5/2025 vừa qua, đề tài "Công nghệ hồ treo thu giữ nước vách núi đá" của các ông được vinh danh Giải thưởng Trần Đại Nghĩa 2025.

 Sau hai công trình đầu tiên kể trên, tỉnh Hà Giang cũ (nay là Tuyên Quang) đã nhân rộng mô hình, triển khai thành đề án và được Chính phủ hỗ trợ nguồn vốn xây dựng thêm một loạt công trình hồ treo mới để giải bài toán thiếu nước, phục vụ đời sống người dân và cung cấp nước sản xuất cho hàng trăm bản làng. Đến nay, trên vùng núi đá cực Bắc đã có 125 hồ treo đang sử dụng; hơn 30 hồ treo đang chuẩn bị được xây mới.

Báo Nông nghiệp và Môi trường trò chuyện cùng PGS.TSKH Vũ Cao Minh - một trong những ‘cha đẻ’ của ý tưởng mang tính giải pháp này.

- Thưa GS.TSKH Vũ Cao Minh, là một trong những người đầu tiên thực hiện thí điểm xây dựng mô hình hồ trữ nước trên vùng cao nguyên đá, sau đó chính quyền tỉnh Hà Giang đã nâng lên thành Đề án chiến lược lâu dài để cung cấp nước sạch và nước sản xuất nông nghiệp của hơn 100.000 đồng bào dân tộc 4 huyện núi đá, từ đó giảm tình trạng thiếu nước ở vùng khô hạn nghiêm trọng này, câu chuyện những ngày đầu đi tìm đất, tìm nước để xây dựng hồ treo của các ông có được suôn sẻ, thuận lợi?

Rất thuận lợi, và thuận lợi ngay từ những ngày đầu triển khai. Chúng tôi may mắn gặp được các đồng chí lãnh đạo Sở Nông nghiệp – Nông thôn Hà Giang lúc đó rất nhiệt tình và nắm bắt công việc rất cụ thể, am hiểu cơ sở một cách chi tiết. Không chỉ hỗ trợ mà các anh còn phối hợp cùng nghiên cứu. Về đến huyện thì cũng không kém thuận lợi: cơ sở hỗ trợ chỗ ăn, chỗ nghỉ, rồi còn điện thoại báo trước cho xã biết là đoàn sẽ tới khảo sát ra sao… Khi cần tham khảo ý kiến, các anh cũng bố trí thời gian cùng đi thực địa để trao đổi tại chỗ. Sau này về làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh, chúng tôi lại được các đồng chí ấy động viên hỗ trợ rất nhiều.

Nan giải nhất đối với chúng tôi là vấn đề xác định nguồn nước khả dụng cho bà con và địa hình núi đá khó tiếp cận. Hào hứng nhận nhiệm vụ như vậy, nhưng lúc đầu chưa có lời giải. Phải mất khoảng một năm thì lời giải mới rõ. Trong một năm ấy chúng tôi tốn khá nhiều công sức để khảo sát các loại nguồn nước, nắm bắt các kiểu địa hình, dân cư. Nghe bà con nói có nguồn nước ở đâu đó thì khó mấy cũng tới, hang động dù chênh vênh mấy cũng tìm cách tiếp cận rà soát. Có lần đi khảo sát, một người trong đoàn bị tuột chân rơi xuống, suýt mất mạng ở hang ngầm. Hay như trèo ngược sườn núi đá chênh cao năm bẩy trăm mét rất nguy hiểm. Tuy vậy khi đến được nơi cần đến thì thực sự vui.

 - Trước khi xây dựng hồ treo trữ nước từ vách đá, ông từng có ý tưởng dẫn nước sông Nho Quế bổ cập nước cho hồ treo, nhưng vì sao các nhà khoa học không triển khai theo phương án này? Điều đó cho thấy, phương án xây dựng hồ treo tích nước tự nhiên từ các khe núi là tối ưu, phù hợp với địa hình, địa tạng của khu vực đá vôi này? Ông có thể phân tích những mặt ưu điểm và cả nhược điểm của phương án xây dựng hồ treo cạn?

Đúng là như vậy. Chúng tôi từng có ý tưởng dẫn nước từ sông Nho Quế về làm nước sinh hoạt cho bà con. Tuy nhiên, bơm nước từ sông Nho Quế lên lại là vấn đề phức tạp, tốn kém.

Sông Nho Quế nằm ở độ cao 400-500 m, thấp hơn các thôn, bản đang thiếu nước từ 800 m tới hơn 1000 m, và lại cách rất xa nơi cần, hơn 20km. Thêm nữa, địa hình núi đá lên cao xuống thấp phức tạp. Trong khi đó bà con vùng cao lại ở phân tán, có các cụm dân cư 5-10 nóc nhà ở biệt lập trên lưng chừng núi…

Nhóm nghiên cứu đề tài đã cân nhắc nhiều, để rồi lựa chọn được giải pháp sử dụng nước từ vách núi. Giải pháp này vừa hạn chế được những khó khăn trên vừa phát huy được tiềm năng nguồn nước phân bố hầu như ở khắp nơi và tại chỗ, có nghĩa là các cụm dân cư phân tán vẫn có thể có nguồn nước. Như vậy, có thể xây hồ, bể chứa nước sinh hoạt ở trong hoặc gần khu dân cư.

Nguồn nước xung quanh thì bà con địa phương có thể đã nắm được hoặc các cơ quan chuyên môn tìm kiếm thêm. Đó là các mó nước, các điểm thấm rỉ, các khu nước chảy tràn… từ vách núi gần nhà mỗi khi có mưa lớn, và cả nước mưa nữa. Và thế là bất kỳ cụm dân cư nào ở thấp hay cao, ở xa hay ở gần đều có thể có nước sinh hoạt. Điểm tiện lợi nữa là, có thể sử dụng luôn đá xây tại chỗ để xây hồ, bể.

Xuất phát điểm của hồ treo là trữ nước mùa mưa để dùng cho mùa khô nên nó có các hạn chế như  lưu lượng có hạn, chưa hỗ trợ được cho canh tác nông nghiệp, đến cuối mùa khô thường thiếu nước, nhất là khi nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng.

      - 2 công trình hồ treo đầu tiên do Viện Hàn lâm đầu tư kinh phí, cán bộ của Viện trực tiếp triển khai thực hiện. Các hồ treo sau này Hà Giang xây dựng từ nguồn vốn ngân sách cấp cho đề án, Viện và các nhà khoa học của Viện có tiếp tục tham gia với vai trò cố vấn hay không? Cá nhân ông có trở lại Hà Giang vào những lần tiếp theo, đã lên với cao nguyên đá bao nhiêu lần, bao nhiêu ngày, có “phải lòng” đất và người nơi này?

Sau khi hai hồ treo đầu tiên hoàn thành và đưa vào sử dụng, UBND tỉnh Hà Giang cũ đã tổ chức hội nghị về khảo sát, thiết kế, xây dựng hồ treo cho các đơn vị tư vấn, xây dựng của tỉnh và Trung ương. Chúng tôi là người thuyết trình về công nghệ mới này, hướng dẫn thêm cho tỉnh.

Quá trình làm hồ treo cũng đã tạo ra nhiều cơ sở khoa học để làm các vấn đề khác về cao nguyên đá, và tôi có dịp đi lại rất nhiều lần. Đó là chuẩn bị các căn cứ ban đầu để tỉnh Hà Giang đề xuất với UNESCO công nhận cao nguyên đá Đồng Văn là Công viên Địa chất Toàn cầu - một thương hiệu hấp dẫn như hiện nay. Đó là tìm kiếm các khu vực có giá trị về mặt du lịch của Công viên để đầu tư phát triển kinh tế du lịch. Đó là tư vấn cho các huyện về giảm nhẹ thiệt hại do sạt lở và lũ quét.

       - Hiệu qu thiết thực của những hồ treo cạn tích nước đã chứng minh trong suốt thời gian qua. Thực tế cũng cho thấy có những điều bất cập, như hồ chỉ có đầu tiếp nhận nguồn nước đầu vào mà chưa có đường dẫn nước đầu ra để lưu thông, quay vòng… nhằm vệ sinh nguồn nước, khiến một số công trình nguồn nước bị ô nhiễm, lắng cặn nếu không được thường xuyên vệ sinh thau dọn. Tuy nhiên cũng cần phân tích từ thực tế: Hà Giang có 6-7 tháng mùa khô, không có nước; hồ treo trữ nước và duy trì tình trạng có nước khoảng 2/3 của khoảng thời gian mùa khô. Như vậy ít nhất có 2 tháng hồ cạn, người dân hoàn toàn có thể tận dụng thời gian này để thau dọn, vệ sinh hồ chứa. Điều này cho thấy ý thức của người sử dụng. Các nhà khoa học có để lại cho bà con chỉ dẫn để duy trì các hồ chứa trong quá trình vận hành? Phương án làm mái che mà một số cơ quan của Hà Giang đề xuất có khả thi hay không?

Nước hồ treo được lấy trực tiếp từ sườn núi, vách núi nên lẫn nhiều bụi, đất, lá cây… Hồ, bể chứa lại nông, nước bị tụ kín nên phát sinh nhiều rong tảo. Lúc đầu chúng tôi chỉ đặt ra vấn đề có được nguồn nước là quý rồi. Về sau đã có những điều chỉnh về mặt thiết kế để thau rửa hàng năm và đã có quy định về cách bảo quản vận hành cho các thôn bản. Việc làm mái che có lẽ phù hợp với các hồ bể nhỏ. Đối với các hồ dung tích lớn cần giải pháp căn cơ hơn.

   - Khi triển khai xây dựng hồ tích nước đầu tiên, mục tiêu ban đầu và hàng đầu, đó là xây dựng được một hồ chứa đảm bảo an toàn kỹ thuật, không thẩm thấu, không bị nứt đáy, không bị biến động bởi nền địa chất kém ổn định của vùng cao nguyên để trữ nước sinh hoạt - thủy lợi. Khi đó có tính tới các mục tiêu sau này, như phục vụ du lịch, yếu tố mỹ thuật của các công trình hồ treo là một phần của cảnh quan, bởi cho tới 7 năm sau, năm 2009 cao nguyên đá mới được xây dựng hồ sơ để được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu?

Tôi nhớ tới một câu chuyện: một lần, tôi được nghe câu chuyện của một đôi bạn trẻ lên cao nguyên đá du lịch. Ở một chặng nghỉ, cô gái khoe với bạn trai rằng, cách đấy ít hôm, cô và lứa bạn đã tới chụp ảnh bên hồ Trái Tim, ảnh đẹp nhờ có hồ nước giống trái tim làm nền. Bạn trai lấy làm lạ, bảo, thế ta sẽ đến hồ đó chụp ảnh kỷ niệm nhé.

Hồ Trái Tim chính là chiếc hồ đầu tiên chúng tôi xây dựng thử nghiệm trên cao nguyên đá. Điều ấy cho thấy, không chỉ tính toán đến công năng, việc thiết kế các công trình sao cho phù hợp, hài hòa với không gian chung vùng đất, bản làng… cũng là điều các nhà xây dựng nên để ý tới.

Rất may mắn, sau này, các đơn vị thiết kế cũng cố gắng tạo hình hồ, vừa thuận lợi cho thi công, vừa đẹp về mặt cảnh quan. Ví như hồ treo Pải Lủng, ngang lưng đèo Mã Pì Lèng là một trong những hồ tạo nên cảnh quan dễ chịu.

 - Trong thời điểm hiện nay, để các hồ treo phát huy đa giá trị, đa mục tiêu, trở thành một hợp phần hạ tầng - động lực phát triển kinh tế xã hội của Hà Giang, ông có đề xuất gì cho địa phương, và những hồ treo tiếp tục xây dựng trong thời gian tới cần tính toán những yếu tố gì, sẽ có gì khác biệt với những công trình đã hoàn thành và đang sử dụng?

Hồ treo là giai đoạn đầu cấp nước trên cao nguyên đá. Giai đoạn ấy đã tập trung vào giải quyết vấn đề nước sinh hoạt thiết yếu. Còn giai đoạn hiện nay cần phát huy vai trò của hồ treo cho nhu cầu nước sinh hoạt tăng cao, cho phát triển chăn nuôi, phát triển sản xuất. Tỉnh Hà Giang cũ (nay là tỉnh Tuyên Quang mới) đã có những chuẩn bị cho công việc này.

Hồ treo vẫn là nguồn tích nước đa mục tiêu và sẽ được nâng cấp về dung tích chứa, về độ kiên cố, về độ thẩm mỹ cảnh quan. Nguồn nước bổ sung cho các hồ sẽ được bổ cập từ các đỉnh núi liền kề, từ đỉnh núi Miêu Vạc và một vài nguồn lớn từ vùng xung quanh.

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng trong một lần nghe thuyết trình về hồ treo gần đây có ý kiến chỉ đạo, hệ thống hồ treo cần được nối mạng. Nước hồ cao sẽ san sẻ cho hồ thấp, nước từ hồ thấp sẽ được bơm lên bổ cập cho hồ cao.

Bên cạnh đó cũng phải nghĩ tới các giải pháp tiết kiệm nước, như giải pháp chống bốc hơi. Lượng nước thất thoát do bốc hơi chiếm gần một nửa dung tích các hồ hiện nay.

   

 - Trước khi lên Hà Giang xây hồ treo thủy lợi, đã bao giờ ông đặt chân lên vùng đất này hay chưa, có tìm hiểu trước những phong tục tập quán của đồng bào vùng cao nguyên đá để từ đó có cách thức làm việc với người dân và chính quyền thôn bản. Bởi lẽ, người vùng cao rất đơn giản trong cách sống, cách nghĩ, nhưng họ cũng thẳng thắn tới mức khó có thể làm việc, cộng tác khi họ chưa nghe, chưa hiểu được vấn đề?

Trước đó chúng tôi đã có dịp lên cao nguyên đá khảo sát để thành lập tập bản đồ Atlas Quốc gia, nhưng chỉ đi dọc đường lớn thôi. Đó là vào năm 1977. Lúc ấy, các huyện lỵ chưa có điện, ban đêm phải chạy máy nổ. Ấn tượng nhất lúc bấy giờ là phiên chợ vùng cao nhiều nông sản lạ, nhiều mầu sắc.

Còn việc có tìm hiểu trước phong tục tập quán của bà con nơi đây hay không thì lúc đó chưa có điều kiện. Cho tới khi thực hiện vấn đề nước vùng cao, chúng tôi mới có dịp tiếp xúc nhiều hơn với cán bộ và nhân dân vùng cao, lúc đó mới biết, mới cảm nhận được đời sống, tâm tư của bà con. Thực là quý!

Kiệt tác hồ treo trên cao nguyên đá Hà Giang. Video: Kiên Trung.

- Vùng Cao nguyên đá là một vùng văn hóa với những đặc thù rất riêng. Cá nhân ông có những cảm nhận riêng về vùng đất, con người nơi đây?

Vùng đất và con người nơi đây kỳ lạ lắm. Tôi lên xuống vùng cao dễ đến gần trăm lần mà mỗi lần trở lại cảm giác vẫn như mới nguyên. Cột cờ Lũng Cú lúc nào cũng như vẫy gọi. Hẻm vực Mã Pì Lèng với trái tim đá lúc nào cũng như một thách thức. Chợ tình Khâu Vai cùng Mê cung đá lúc nào cũng như một niềm đắm say. Chẳng trách các bạn ngoại quốc khi chia tay cao nguyên đá thấy bịn rịn, khó rời biết nhường nào. Và tôi nghĩ, với những cảnh quan ấy, với những con người ấy, cao nguyên đá thực sự đã trở thành báu vật của mỗi chúng ta.

Xin cảm ơn GS.TSKH Vũ Cao Minh!

Kiên Trung - Tú Thành
Trọng Toàn
Kiên Trung
Kiên Trung

Tin liên quan

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 4] 'Trái tim' trên bản Sà Phìn

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 4] 'Trái tim' trên bản Sà Phìn

Phóng sự 23:33

Hồ treo Sà Phìn - công trình thủy lợi đầu tiên trên cao nguyên Đồng Văn mang hình trái tim. Bên trong trái tim ấy, là nước - mạch nguồn của sự sống.

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 3] Cú hích cho phát triển du lịch sinh thái

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 3] Cú hích cho phát triển du lịch sinh thái

Phóng sự 08:47

Không chỉ đáp ứng mục tiêu giải cơn khát cho vùng khô hạn của cao nguyên đá, hồ treo đang góp phần thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái...

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 2] Giải cơn khát ở Cán Chu Phìn

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 2] Giải cơn khát ở Cán Chu Phìn

Phóng sự 10:43

Những bản làng trên cao nguyên đá gần 20 năm qua đã dịu cơn khát nhờ những chiếc hồ treo, những bể chứa nước kiên cố theo dự án giảm nghèo...

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 1] Những ‘túi nước’ trên độ cao 2.000m

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá: [Bài 1] Những ‘túi nước’ trên độ cao 2.000m

Phóng sự 10:10

Nếu 'Con đường hạnh phúc' là di sản đầu tiên trên Cao nguyên đá thì những hồ treo ở độ cao 2.000 mét có lẽ là di sản thứ 2 do con người tạo nên...

Xem thêm