‘Bờ vai nương tựa’ của những cánh đồng mùa hạn mặn

Hồ chứa nước ngọt đã giúp người dân ven biển thoát khỏi nỗi lo thiếu nước mùa khô, ổn định sản xuất và hy vọng về những mùa vụ mới.

 

 

 

Những năm gần đây, Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với nghịch lý của thiên nhiên ngày càng khắc nghiệt: mùa khô, nước mặn tràn về, trong khi nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng khan hiếm. Đặc biệt ở vùng ven biển, đây là nỗi lo thường trực trong đời sống người dân.

Theo GS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu - Đại học Cần Thơ, phần lớn nguyên nhân xuất phát từ việc con người làm mất dần các vùng trữ nước tự nhiên.

Cụ thể, ở vùng Đồng Tháp Mười, lượng nước trữ tự nhiên trước đây khoảng 9,2 tỷ m³ mỗi mùa lũ, nhưng khi xây các hệ thống đê bao khép kín để canh tác 3 vụ lúa, con số này chỉ còn 4-5 tỷ m³. Nước lũ không còn tự do vào ra theo mùa, điều tiết hệ sinh thái, bổ cập nước ngầm… Thay vào đó, các công trình nhân tạo trở thành “giải pháp chữa cháy” cho bà con trong mùa khô.

Một trong những điểm nhấn là hồ chứa nước ngọt Kênh Lấp, xã Tân Xuân, tỉnh Vĩnh Long (trước đây thuộc địa bàn Bến Tre cũ). Công trình dài gần 4,6 km, dung tích thiết kế hơn 811.000 m³, với hai cống ngăn mặn 9A và Cô Ba, hệ thống đê bao kiên cố. Tổng vốn đầu tư gần 69 tỷ đồng, phục vụ khoảng 35.000 người, 100.000 gia súc cùng hàng trăm cơ sở sản xuất và trường học trên địa bàn.

Từ trên cao, hồ chứa nước Kênh Lấp hiện ra như con rồng khum lưng, ôm trọn những cánh đồng xanh mướt. Ảnh: Hồ Thảo.

Từ trên cao, hồ chứa nước Kênh Lấp hiện ra như con rồng khum lưng, ôm trọn những cánh đồng xanh mướt. Ảnh: Hồ Thảo.

Trước khi hồ đi vào hoạt động, mùa khô là nỗi ám ảnh đối với người dân. Đỉnh điểm năm 2016, toàn vùng thiệt hại hơn 12.000 ha lúa đông xuân, trên 100.000 gia súc thiếu nước uống, hơn 200 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp phải tạm dừng. Nhiều giếng khoan nhiễm mặn, bà con phải đi xa lấy nước hoặc mua với chi phí cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, đặc biệt là hộ nghèo.

 

 

Chính quyền địa phương triển khai nhiều giải pháp tình thế: hỗ trợ bồn chứa nước, vận động mạnh thường quân, các doanh nghiệp hỗ trợ nước ngọt, đồng thời kết hợp chương trình giảm nghèo để ưu tiên các hộ khó khăn.

Bà Võ Thị Phượng, Trưởng phòng Kinh tế xã Tân Xuân, nhìn nhận: “Những phương án nói trên chỉ là tạm thời. Đến năm 2019, khi hồ Kênh Lấp đi vào hoạt động, niềm tin của bà con mới được khôi phục, mùa khô không còn là nỗi lo nữa”.

Để các công trình phát huy hiệu quả lâu dài, xã phối hợp với chủ đầu tư xây dựng quy chế vận hành khoa học, phân bổ nguồn nước theo thứ tự ưu tiên: nước sinh hoạt trước, tiếp đến chăn nuôi, cây trồng cạn rồi mới đến các cơ sở tiểu thủ công nghiệp nhằm hạn chế gián đoạn sản xuất, bảo đảm việc làm và thu nhập.

Song song đó, địa phương tổ chức kiểm tra, bảo trì công trình định kỳ, bảo vệ hành lang hồ, phòng chống ô nhiễm nguồn nước, và thành lập tổ quản lý cộng đồng để theo dõi vận hành hằng ngày, xử lý kịp thời các tình huống phát sinh.

Qua lời giới thiệu của bà Phượng, chúng tôi rong ruổi quanh hồ, cảm nhận nhịp sống mới của Tân Xuân. Nhìn từ trên cao, mặt hồ uốn lượn như con rồng khum mình giữa cánh đồng khô. Hai bên là dãy nhà và hàng dương thẳng tắp, xe cộ bon bon trên tuyến lộ bê tông. Người dân thong dong vận chuyển cỏ nuôi bò, xe chở lúa nối thành hàng dài.

Ông Cao Tấn Lành, ấp Phú Thuận, nhớ lại, trước đây, mùa khô nước kênh nhiễm mặn, gia đình phải đào giếng phụ nhưng cũng chỉ tạm dùng được. Tháng cao điểm, nước trơ cạn, bò suýt chết khát, ruộng bỏ hoang chờ mưa. Giờ thì khác, nước đầy đủ, bà con trồng được hai, ba vụ lúa nên đời sống cải thiện hơn.

Tuyến đường giao thông hai bên hồ giúp người dân thuận tiện vận chuyển cỏ nuôi bò, tạo không khí phấn khởi. Ảnh: Hồ Thảo.

Tuyến đường giao thông hai bên hồ giúp người dân thuận tiện vận chuyển cỏ nuôi bò, tạo không khí phấn khởi. Ảnh: Hồ Thảo.

 

 

Dọc hai bên tuyến lộ, không khí làng quê trở nên rộn ràng hơn hẳn. Nhà nghỉ, quán cà phê, sân bóng, quán ăn và những ngôi nhà mới mọc lên san sát. Người dân trong xã cho biết, nhờ giao thông thuận tiện giao thương, lúa thu hoạch dễ vận chuyển, bán được giá cao hơn, đời sống kinh tế cũng khởi sắc rõ rệt. Đa số bà con bày tỏ mong muốn có thêm nhiều công trình như hồ Kênh Lấp để tiếp tục phát triển hạ tầng và ổn định nguồn nước.

Trên địa bàn xã Tân Xuân, ngoài hồ Kênh Lấp đã hoạt động, địa phương còn đang xây dựng hồ chứa nước Lạc Địa, hiện hoàn thành khoảng 80% khối lượng thi công. Hồ có quy mô gần 100 ha, trong đó 56,7 ha với trữ lượng thiết kế khoảng 2,3 triệu m³, phục vụ khoảng 60.000 hộ dân.

Dù công trình chưa đi vào vận hành, nhưng đã mang lại những tín hiệu tích cực.

Ông Nguyễn Đại Thắng, Chủ tịch UBND xã Tân Xuân, cho biết người dân rất đồng thuận, tích cực hỗ trợ công tác giải phóng mặt bằng. Phần lớn hộ dân chủ động di dời chuồng trại, hoa màu để công trình sớm hoàn thành, bởi họ đã thấy rõ hiệu quả từ hồ Kênh Lấp trước đây.

 

 

Từ trung tâm xã Tân Xuân, theo tuyến đường liên huyện hướng về phường Bến Tre, sau đó vào Quốc lộ 60, chạy khoảng 30-40 km, vượt sông Cổ Chiên là đến công trình hồ chứa nước Láng Thé, thuộc địa bàn huyện Châu Thành và Càng Long, tỉnh Trà Vinh cũ (nay là Vĩnh Long).

Nếu hồ Kênh Lấp ở Lạc Địa đóng vai trò “pháo đài giữ ngọt” vùng giáp biển, thì Hồ Láng Thé là “trạm trữ nguồn” nhờ vị trí gần sông Cổ Chiên. Hồ không chỉ phục vụ khu vực Trà Vinh cũ mà còn tích hợp vào hệ thống cấp nước liên vùng Bến Tre cũ, giúp ứng phó với hạn mặn ngày càng gay gắt.

 

 

Ông Nguyễn Quỳnh Thiện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long, cho biết trước khi sáp nhập tỉnh, dự án phục vụ nguồn nước cho huyện Càng Long, Châu Thành và TP Trà Vinh. Sau sáp nhập, Vĩnh Long đang mở rộng cấp nước ngọt từ hồ về khu vực Cù Lao Minh, huyện Mỏ Cày Nam và Thạnh Phú (Bến Tre cũ). Nhiều nhà đầu tư đã đề xuất khảo sát kéo đường ống về vùng này, góp phần hình thành chiến lược liên vùng về nguồn nước.

 

 

Đây là công trình trọng điểm trong tổng thể dự án hạ tầng hồ Láng Thé, bao gồm hệ thống kè bảo vệ sông, đập ngăn nước, cống thoát nước, tuyến đường dọc sông và khán đài đua ghe ngo. Khi hoàn tất, công trình sẽ bảo đảm an ninh nguồn nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, công nghiệp, đồng thời chống sạt lở bờ sông và tiêu thoát ngập úng, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu.

Mới đây, người dân trong vùng phấn khởi đón niềm vui khi giai đoạn 1 của công trình Láng Thé chính thức khánh thành. Dự án có tổng vốn đầu tư hơn 1.330 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 103 tỷ, phần còn lại do ngân sách tỉnh bố trí.

Một đoạn của hồ chứa nước Láng Thé, công trình có dung tích 10,9 triệu m³ và quy mô lớn nhất miền Tây hiện nay. Ảnh: Hồ Thảo.

Một đoạn của hồ chứa nước Láng Thé, công trình có dung tích 10,9 triệu m³ và quy mô lớn nhất miền Tây hiện nay. Ảnh: Hồ Thảo.

Giai đoạn 1 gồm 5 gói thầu với tổng giá trị 424 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành cuối tháng 4/2026. Tuyến đường chính dọc sông dài hơn 8,1 km, nền rộng 13 m, mặt đường 11 m, có hệ thống chiếu sáng đèn led hai bên. Ngoài ra còn có 7 tuyến đường nhánh dài hơn 2 km, 3 cầu giao thông lớn và 15 cống điều tiết nước. Diện tích mặt nước hơn 32 ha, dung tích hữu ích khoảng 10,9 triệu m³ - lớn nhất miền Tây.

Dọc hai bên bờ, những mái nhà mới bắt đầu mọc lên, quán nước lác đác đón khách, tạo nên nhịp sống rộn ràng hơn trước.

Ông Thạch So Phan, người dân phường Nguyệt Hóa, cho biết trước đây làng quê khá yên ắng, bà con quanh năm chỉ làm lúa, nuôi bò. Giao thông khó khăn, nước sinh hoạt thiếu. Từ khi dự án triển khai, ai cũng ủng hộ, mong công trình sớm hoàn thành để phục vụ du lịch, buôn bán, góp phần cải thiện kinh tế.

“Không khí lễ Sendonta năm nay càng thêm rộn ràng, bởi tuyến đường quanh hồ chứa nước đã hoàn thành, giúp việc đi lại thuận tiện hơn. Quan trọng nhất, người dân không còn nỗi lo thiếu nước khi công trình đi vào hoạt động. Chỉ mong mưa thuận, gió hòa để có thêm một vụ mùa bội thu”, ông Phan chia sẻ.

Ông Nguyễn Quỳnh Thiện nhận định, Hồ Láng Thé không chỉ là công trình thủy lợi mà còn mở ra hy vọng liên kết vùng, kết nối các dự án hồ chứa nước trong khu vực, tạo nền tảng hạ tầng, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống cho người dân ven biển. Khi kết hợp với các công trình khác, đây sẽ là hệ thống trữ nước ngọt chiến lược, bảo đảm “mạch sống” mùa khô cho cả một vùng rộng lớn của tỉnh.

 

 

Theo GS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu - Đại học Cần Thơ, việc trữ nước ở Đồng bằng sông Cửu Long không thể dựa vào một giải pháp duy nhất, bởi mỗi mô hình đều có ưu điểm và hạn chế rõ ràng.

 

 

Hồ chứa nước lớn tại vùng ven biển có khả năng tập trung lượng nước đáng kể, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất cho hàng chục nghìn hộ dân. Tuy nhiên, ở địa hình bằng phẳng, mô hình này gặp nhiều thách thức: nước dễ bốc hơi, khó quản lý, chi phí xử lý ô nhiễm cao, đặc biệt khi nước bị ảnh hưởng bởi tầng phèn hoặc mặn ngầm. Ngoài ra, hồ lớn gần biển cũng đối mặt với nguy cơ xâm nhập mặn, ô nhiễm do chim cò và các loài thủy sinh.

Một hiện tượng đáng chú ý là “hút ngược”: Vào mùa khô, hồ có thể hút nước từ các ao hộ dân xung quanh, sau đó phải bơm ngược trở lại để sử dụng, vừa tốn kém, vừa gây áp lực lên cộng đồng. Ở một số địa phương như Bạc Liêu, còn xuất hiện xung đột nguồn nước giữa vùng nuôi tôm và vùng trồng lúa; việc mở cống cho tàu thuyền đi lại dễ tạo dòng chảy mạnh, gây tai nạn và ảnh hưởng hệ sinh thái ven sông.

Ngược lại, mô hình ao hồ nhỏ do cộng đồng quản lý có nhiều lợi thế: chi phí thấp, dễ vận hành và bảo dưỡng, người dân chủ động, có thể lót bạt chống thấm để giảm thất thoát nước.

“Trước đây, ở Trà Vinh có những ao chung như ao Bà Om. Nước sinh hoạt quanh năm vẫn ổn định. Một nhóm hộ chung nhau đào ao, vừa có nước dùng, vừa có đất đắp bờ trồng cây, giảm bốc hơi”, ông Tuấn dẫn chứng.

Ông nhấn mạnh, quy hoạch hồ chứa nước phải bắt đầu từ khảo sát địa chất - thủy văn, sau đó chọn mô hình phù hợp: hồ lớn tập trung hay hồ nhỏ phân tán; hồ sâu hay hồ nông tùy địa hình; thậm chí có thể chuyển nước từ nơi khác để cân bằng nguồn.

Hồ chứa nước ngọt là "mạch sống" cho sự phất triển ổn định bền vững. Video: Hồ Thảo.

Bổ cập nước ngầm cũng là giải pháp cần thiết: mùa mưa bơm nước ngọt xuống tầng ngầm, mùa khô rút lên sử dụng, giúp hạn chế sụt lún, bảo vệ hạ tầng và duy trì nguồn nước ổn định lâu dài.

Ngoài ra, cần kết hợp các giải pháp nhỏ như ao dân sinh, bồn nhựa dung tích 5-25 m³ để trữ nước mưa, vừa đơn giản, vừa hiệu quả, bảo đảm nước sinh hoạt cho từng hộ và cụm dân cư trong mùa khô.

Thay đổi mô hình sản xuất là yếu tố then chốt để phát triển bền vững. Trồng lúa tiêu tốn lượng nước lớn nhưng giá trị kinh tế thấp, trong khi nuôi thủy sản hoặc trồng cây ăn trái mang lại giá trị cao hơn, nếu người dân được hỗ trợ kỹ thuật và đầu ra.

“An ninh nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là những công trình ngàn tỷ, mà là sự kết hợp giữa quản lý nước thông minh, sản xuất thích ứng và ý thức cộng đồng”, ông Tuấn khẳng định.

Hồ Thảo
Tùng Quân
Ảnh: Hồ Thảo - Minh Đảm
Video: Hồ Thảo